Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Thơ an ủi bạn tuổi nhiều thoái chí

Tác giả: Lê Đức Mậu (Kỳ Nam hữu Tự)
Bốn chục xuân thu tuổi mấy mươi
Công danh ai đã bảo rằng thôi
Tám mươi Lã Vọng còn ra trận
Bảy chục Hoàng Trung vẫn trổ tài
Cỡi sóng lẽ nào theo gió cuốn
Cầm sào há chịu để thuyền trôi
Làm trai đứng giữa phong trào mới
Phải đóng vai hay góp với đời

Thơ ca tả cô con gái Huế rất trẻ đẹp đang ngồi kề tâm sự rả rích với ông chồng chà và rất đen xấu

Tác giả: Lê Đức Mậu (Kỳ Nam hữu Tự)
Thơ:
Chi rứa ông tơ khéo cột người
Trăm năm có phải chuyện làm chơi
Chà và ngồi trước mình đen xám
Son phấn kề bên sắc rói tươi
Phận ép duyên nài chi nợ chịu
Tiền trăm bạc chục đó mà thôi
Đi qua ta thấy ta thêm ngán
Con cháu rồng tiên đến thế thời
-----------
Ca:
Kim chi nhân duy tiền nhi dĩ
Lắm tiền tiêu các chị nghĩ là hơn
Quản chi chi má phấn môi son
Cho Ấn Độ chà và hun hít thảy
Hồng nhan đã lắm người như dại
Tây đen kia thấy gái thì mê
Chớ quả mai ba bảy đã chi hề,
Chi sớm đã đưa thân về với họ
Ngồi ngoảnh lại đó đây đây đó
Sắc chàm đen càng ngó ngó càng say
Có tiền ai cũng như ai

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013

Bài văn tế bố vợ nhân ngày giỗ đầu năm 1948

Tác giả: Lê Đức Mậu (tự là Kỳ Nam)
Việt Nam dân chủ cộng hòa năm thứ tư
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hôm nay là ngày 7 tháng 2 năm Mậu Tý nhân ngày lễ tiểu trường của thân phụ Đinh quý thị, tự hiệu Kính Chi, hiệu biệt Tùng mai tiên sinh, con trai, con gái, dâu rể và cháu vâng lịnh mẹ Trần thị, kính cẩn dâng chút lễ mọn tới trước linh tọa, khóc và than rằng:
Than ôi! kiếp phù sinh một giấc, có không, không có, vẫn biết câu "thất thập lai hy"; lòng hiếu thảo ba xuân, khuya sớm, sớm khuya nghĩ đến chữ "chung thân nhi mộ".
Nhớ cha xưa:
Nếp đất thông minh,
Tư trời dĩnh ngộ,
Khoa bảng nếp nhà,
Thi thư dòng cũ,
Dạo sân châu Khổng đã từng phen nổi tiếng văn chương. Kết bạn kỳ hiên cũng lắm lúc lừng danh tế độ. Thong thả tháng ngày Nghiêu Thuấn, khi trà sen, khi rượu cúc, giữa nhi tôn cam bỉnh nức mùi thơm. Thảnh thơi trăng gió tùng mai, khi thuốc thánh, khi thơ thần cùng bá thị huân trì đua nhịp gõ. Những tưởng trời còn để có, dằng dặc trăm năm cõi thế, nào cháu, nào con, nào dâu, nào rể; khi đắc ý hơi men khói thuốc, trước sân lai đôi mái hạc song song.
Nào ngờ đất lở xui nên, mơ màng một giấc về tiên, để sầu, để não, để tiếc để thương, khéo vô tình bãi bể nương dâu, trên núi Hộ chín khúc tằm vò võ.
Nơi khách địa hai anh  lo việc nước, không gặp cha để nghe lời dặn, dạ những bồi hồi; chốn khuê phòng hai chị ẵm con thơ đã xa chồng lại gặp tang cha lòng thêm sầu khổ.
Cháu trẻ tuổi đầu xanh lơ láo, nửa khôn nửa dại, gánh gia đình khó nỗi lo toan. Mẹ thân già chiếc bóng chiều hôm. khi tẻ khi vui niềm tâm sự cùng ai giải tỏ.
Ơn thái nhạc chưa mảy may đền báo, cám cảnh âm dương cách biệt, lúc lâm đình tấc dạ khôn nguôi; cảnh thung đường khuya sớm băn khoăn, đau lòng phụ tử sinh li, khi quy ngấn lệ sầu tuôn nhỏ.
Cha chẳng rốn một vài năm nữa, chờ lúc thái bình yên lặng, dưới chăn gối sum vầy rả rích anh trước em sau
Cha không đợi ít lâu gì, đến khi độc lập hoàn toàn, giữa nước nhà reo hát mừng vui sao vàng cờ đỏ. Cha nỡ vội làng mây xa lánh, gót tiêu dao trên nước Nhược non Bồng. Cha nỡ đành cửa Phật vui chơi; tai phảng phất giữa cá kình chim mọ.
Ôi than ôi! Tưởng chữ cù lao! nhớ ơn báo hộ, xiết tả tâm tình, biết bao phận số! Muôn thuở trông theo làn cỏ ấy. Trời ở đâu, đất ở đâu, non cao bể rộng hỏi là đâu? Năm canh  ôn lại dấu người thân, rượu vẫn đó, trà vấn đó, nét mực hồn thơ còn vẫn đó!
Ôi thương ôi!


Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Gặp bạn Sơn

Hôm nay, tôi gặp bạn Sơn
Bạn, mình chẳng biết mệt hơn ai nào
Hôm qua uống rượu quá vào
Tuy vui nhưng phải xin chào từ nay
Chú thích: Đây là cảm tưởng sau khi buổi sáng gặp bạn Sơn ngay sau tối hôm đi uống rượu mừng thầy Hậu được danh hiệu Nhà giáo giỏi cấp Bộ Quốc Phòng

Viếng thi sĩ Tạn Đà

Tác giả: Lê Đức Mậu (Tự là Kỳ Nam)
Hồn xưa thi sĩ biết gần xa?
Nhớ đến thơ xưa nhớ Tạn Đà
Non nước vẽ vời tranh đượm nét
Gió giăng đề vịnh bút thêm hoa
Hạnh Thôn còn đó nhiều cô trẻ
Lạc Xã bằng nay hiếm bạn già
Dưới suối vàng kia không bó buộc
Tùng Tuy Đỗ Lý sức ngâm nga
Chú thích: thi sĩ Tản Đà ông tôi gọi là Tạn Đà là tiếng địa phương. Còn Hạnh Thôn và Lạc Xã nhờ bạn Sơn giải nghĩa giùm

Thơ gửi vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn trông nom mẹ già

Tác giả: Lê Đức Mậu
Thơ tả hết nỗi lòng yêu dấu
Gửi về thăm tần tảo bạn hiền
Khắc giời đăng đẳng như niên
Nhớ ai ai nhớ ưu phiền đòi nao
Đường xa cách ngô lào sá ngại
Tựa buồng không thiếp hãy yên tâm
Tơ kia đã vướng thân tằm
Trăm năm bia tạc đồng tâm lời nguyền
Xin thiếp giữ chân truyền một tiết
Thờ mẹ già tính nết đoan trang
Làm ăn khuya sớm trăm đằng
Phải lo học tập chớ màng vui chơi
Đừng học thói ngược xuôi ngày tháng
Để thế gian kẻ báng người chê
Trò chơi đánh chác chớ mê
Ra vào cẩn thận đi về phải chăng
Tôi đành đã bồng tang gánh nặng
Quản chi thân mưa nắng dãi dầu
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Tâm can ai kẻ đỡ hầu cho ta
Vậy thiếp phải lo xa nghĩ tới
Thờ mẹ già mối nối thay anh
Ở sao cho đúng chút tình
Mẹ con vui vẻ cho mình khỏi lo
Công hầu mẹ xem to bằng núi
Khách chân mây xiết nỗi mừng vui
Yên tâm làm việc cho người
Họa may sau có một ngày vẻ vang
Tình đây đó đã tường hay chẳng
Dẫu gian lao cũng gắng lo toan
Chớ nghe miệng thế nói bàn
Mà hư việc lại phàn nàn về sau
Tình chăn gối trước sau khuyên giải
Có yêu nhau xin hãy như lời
Thơ phong dạ những bồi hồi
Biết rồi sau có như rày cho không?
Thơ nhắn gửi lệ dòng chan chứa
Cảnh gia hương càng (ngẫm)  càng đau
Đoái xem non nước một màu
Mang mông cao rộng biết bao đường dài
Đường dài dặc khôn bài lui tới
Biết cùng ai nói nói cười cười
Vì ai xa cách đôi nơi
Để lòng tôi những đứng ngồi trông mong
Trông nhớ (nguời) buồng không ngồi dựa
Trông nhớ người đứng (cửa) dòm ra
Trêu người chi lắm giăng già
Để cho ai những thiết tha trong lòng
Ví chẳng mắc vào vòng danh lợi
Thì thân này chi mắc long đong
Ai ơi mấy kẻ yêu chồng
Ghé vai chung gánh cho chồng một phen
Đừng chán não ưu phiền  thêm mệt
Cất cơn buồn tính kế sinh nhai
Ngày xuân xuân hãy còn dài
Chớ than phận liệu mà gầy tóc sương
Đây (tính) cũng tìm phương gần gửi
Cảnh gia đình sớm tối cùng nhau
Vườn xuân mặc sức ra vào
Cho (ta) những lúc khát khao vì tình
Mình ơi có (thấu) chăng mình


(Chú thích Những chỗ viết trong dấu ngoặc đơn nguyên bản là chữ rất khó đọc hoặc viết sát lề giấy bị mất chữ đọc không được tôi tự đoán lấy)

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Bất ngờ gặp nữ sĩ vô danh đùa bỡn

Tác giả: Lê Đức Mậu
Dẫn: Trước cách mạng tháng 8, không nhớ năm tháng nào, khi ở Huế, anh em chúng tôi trong quán trọ học tập và bàn chuyện làm thơ, thì bỗng có nữ sĩ vào hỏi sao các ông đồ này ít làm thơ? chúng tôi đáp vì thơ phải có rượu mới hứng thú mà chúng tôi nghèo không có tiền mua rượu nên không làm được thơ. Cô ta liền mở ví đưa ra 3 đồng biếu chúng tôi và bảo đi mua rượu về uống, em ngồi chờ đây để nghe thơ, chúng tôi hỏi quê quán, tên tuổi thì nhất thiết không nói, chỉ nói khi lúc được học ít chữ nho nên ham nghe thơ. Việc cũng lạ thật nên nhớ ghi vào đây
Thơ:
Làng văn không rượu nhác làm thơ
Tình cảnh làng văn đã ngán chưa?
Gái sẵn tiền lưng đưa biếu khách
Bảo tôi mua rượu gái ngồi chờ
---------
Gái chờ nào có ý gì đâu
Muốn thử tài văn thấp với cao
Tớ vẫn vui lòng không chút ngại
Tần- Hoài tớ bảo rượu mua mau
----------
Đảo khắp Tần - Hoài suốt một vòng
Làng văn mấy (thuở) mãi ngồi trông
Mang về rượu lít hơi còn nóng
Mời gái ngồi chung nhấp chén đồng
---------
Nở nụ cười hoa bảo các ông
Rằng thơ có rượu mạnh tuôn dòng
Em đây chỉ muốn nghe thơ Lý
Không biết thơ Đường có nữa không?
------------
Ghê gớm trần gian lắm lạ lùng
Gái đâu tới bỡn khách anh hùng
Khải rằng Thị Điểm Xuân Hương mới
Xướng họa cùng vui chớ ngại ngùng
---------------
Nếu phải rằng tiên cứ nói đi
Tôi mời ông Lý tới ngâm thi
Ở đây đồ đệ Trường Canh cả
Thơ Lý thơ Đường nỏ thiếu chi
--------------
Bài cô trả lời
Theo đòi nhiều ít bút và nghiên
Mặt thợ rìu đâu dám múa men
Nợ rượu đền thơ lòng quí quá
Vài hồi chuông đánh tiếng lừng (không)
(Chú thích: chữ trong ngoặc đơn tôi không đọc được nên để tạm thế )

Tặng hai thanh niên nam nữ thành hôn

Tác giả: Lê Đức Mậu
Bài ca:
Xuân sắp tới ánh tưng bừng rực rỡ
Chị cùng anh hăm hở kết nhân duyên
Bạn trăm năm kén chọn đã vừa nguyền
Trai tráng sĩ gái thuyền quyên sắc sảo
Gái nội trợ gia đình cho phải đạo
Mà tiền phương chiến đấu phải hăng lên
Gánh non sông đoàn thể đặt lên trên
Trai với gái nặng tấm nguyền giết giặc
Giành cho được hòa bình và thống nhất
Độc lập rồi reo hát khúc hoài ca
Chị em ta dầu phận gái đàn bà,
Cũng mạnh mặt đi ra cùng các giới
Đào hây hẩy gió đông đưa phơi phới
Hạnh phúc chào hai bạn mới thành hôn
Đá vàng kết nghĩa keo sơn
Chú thích: Tôi không rõ hoàn cảnh của bài ca này nhưng đoán rằng đây là bài ca làm tặng đám cưới đôi trai gái  do Hội phụ nữ tổ chức thời chiến tranh vì cụ đề chữ Phụ nữ: bên cạnh tên bài ca

Bị cháy nhà

Tác giả: Lê Đức Mậu
Vừa bước chân đi đã cháy nhà
Hại nhau chi lắm thế giời già?
Lửa hồng thiêu hết cơ đồ cũ
Tro xám vùi tan sách vở ta
Lý Bạch Tô Công người đã khuất
Bồng sơn Nhược thủy cảnh còn xa
Biết ai cùng bạn tiêu sầu tí
Chỉ có ngâm đề giăng với hoa
Bị chú: Vì giăng sáng soi rõ mà dễ an ủi mình, hoa thi tươi cười hớn hở làm cho người vui 
Chú thích: Tô Công là Tô Đông Pha. Tô Đông Pha và Lý Bạch là 2 nhà thơ lớn của Trung Quốc. Vụ cháy này tiêu hủy hết mấy tập thơ văn của ông. Không còn nhà Ông ra Sơn Tây sống cùng con trai, thời gian rỗi ngồi nhớ và chép lại thơ đã cháy mất. 

QUYẾT TÂM TÔ THẮM CỜ HỒNG BÁC TRAO

  Tác giả: Lê Nhất (Bài thơ đạt giải A Cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống Trường Sĩ quan Lục...