Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013
Một số tiết mục thi Hội phụ nữ cơ sở giỏi của khoa KHTN năm 2013
https://youtu.be/KCc4dgETo2M
Màn chào hỏi
Tiết mục năng khiếu do Lê Nhất và Hương Thảo biểu diễn
Tiết mục Kịch do Cao Hà, Thu Phương và Hương Thảo diễn xuất
Phát biểu khai mạc hội thao cơ sở năm 2013 của Khoa Khoa học Tự nhiên
Kính thưa: Các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy khoa KHTN
Thưa các đồng chí cán bộ, giảng viên
Trong không khí tưng bừng phấn khởi kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), hôm nay, ngày 06 tháng 11 năm 2013, khoa Khoa học Tự nhiên trang trọng tổ chức Hội thao cấp cơ sở năm 2013 nhằm mục đích thúc đẩy phong trào rèn luyện thể thao trong cán bộ, giảng viên, CNV, CS đồng thời là cơ sở để tuyển chọn, bồi dưỡng đội tuyển thể thao của Khoa tham gia thi đấu Hội thao cấp Nhà trường năm 2013.
Thay mặt cho lãnh đạo chỉ huy khoa, tôi nhiệt liệt chào mừng các các đ/c cán bộ, giảng viên, các vận động viên tới thi đấu, cổ vũ, động viên thi đấu. Kính chúc các đồng chí cùng gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc!
Kính thưa các đồng chí
Sức khỏe và trí tuệ là tài sản lớn của mỗi con người, có sức khỏe mới có thành công, mới đóng góp được nhiều cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Nhà trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “ luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Do vậy, mỗi chúng ta đều phải tích cực luyện tập thể dục thể thao, qua đó phong trào thể dục thể thao, chất lượng đội tuyển thể thao của chúng ta sẽ ngày càng phát triển.
Để đợt hội thao cấp cơ sở khoa KHTN đạt được kết quả cao. Thay mặt lãnh đạo, chỉ huy khoa, tôi yêu cầu:
1/ Các vận động viên thi đấu với tinh thần đoàn kết, nhiệt tình, trung thực, cao thượng phấn đấu đạt thành tích cao nhất. Cống hiến cho CB, GV toàn khoa những pha bóng đẹp, những đường cầu xuất sắc.
2/ Các đồng chí làm nhiệm vụ trọng tài nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm việc công minh, khách quan, trung thực và đúng luật để góp phần vào sự thành công của Hội thao.
3/ Các đồng chí cổ động viên hãy cổ vũ nhiệt tình, vô tư, động viên các đồng chí thi đấu với tinh thần cao nhất.
4/ Sau Hội thao cơ sở, các đồng chí được phân công bồi dưỡng đội tuyển xây dựng kế hoạch luyện tập, tích cực bồi dưỡng vận động viên để chúng ta có thành tích tốt trong đợt hội thao cấp Nhà trường.
Với tinh thần đó thay mặt lãnh đạo, chỉ huy khoa tôi tuyên bố khai mạc hội thao cấp cơ sở khoa KHTN, năm 2013 !
Xin chúc các các vận động viên và toàn thể cán bộ, giảng viên mạnh khoẻ, hạnh phúc! Chúc Hội thao cơ sở khoa KHTN, thành công tốt đẹp.
Xin chân trọng cảm ơn!
Thưa các đồng chí cán bộ, giảng viên
Trong không khí tưng bừng phấn khởi kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), hôm nay, ngày 06 tháng 11 năm 2013, khoa Khoa học Tự nhiên trang trọng tổ chức Hội thao cấp cơ sở năm 2013 nhằm mục đích thúc đẩy phong trào rèn luyện thể thao trong cán bộ, giảng viên, CNV, CS đồng thời là cơ sở để tuyển chọn, bồi dưỡng đội tuyển thể thao của Khoa tham gia thi đấu Hội thao cấp Nhà trường năm 2013.
Thay mặt cho lãnh đạo chỉ huy khoa, tôi nhiệt liệt chào mừng các các đ/c cán bộ, giảng viên, các vận động viên tới thi đấu, cổ vũ, động viên thi đấu. Kính chúc các đồng chí cùng gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc!
Kính thưa các đồng chí
Sức khỏe và trí tuệ là tài sản lớn của mỗi con người, có sức khỏe mới có thành công, mới đóng góp được nhiều cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Nhà trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “ luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Do vậy, mỗi chúng ta đều phải tích cực luyện tập thể dục thể thao, qua đó phong trào thể dục thể thao, chất lượng đội tuyển thể thao của chúng ta sẽ ngày càng phát triển.
Để đợt hội thao cấp cơ sở khoa KHTN đạt được kết quả cao. Thay mặt lãnh đạo, chỉ huy khoa, tôi yêu cầu:
1/ Các vận động viên thi đấu với tinh thần đoàn kết, nhiệt tình, trung thực, cao thượng phấn đấu đạt thành tích cao nhất. Cống hiến cho CB, GV toàn khoa những pha bóng đẹp, những đường cầu xuất sắc.
2/ Các đồng chí làm nhiệm vụ trọng tài nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm việc công minh, khách quan, trung thực và đúng luật để góp phần vào sự thành công của Hội thao.
3/ Các đồng chí cổ động viên hãy cổ vũ nhiệt tình, vô tư, động viên các đồng chí thi đấu với tinh thần cao nhất.
4/ Sau Hội thao cơ sở, các đồng chí được phân công bồi dưỡng đội tuyển xây dựng kế hoạch luyện tập, tích cực bồi dưỡng vận động viên để chúng ta có thành tích tốt trong đợt hội thao cấp Nhà trường.
Với tinh thần đó thay mặt lãnh đạo, chỉ huy khoa tôi tuyên bố khai mạc hội thao cấp cơ sở khoa KHTN, năm 2013 !
Xin chúc các các vận động viên và toàn thể cán bộ, giảng viên mạnh khoẻ, hạnh phúc! Chúc Hội thao cơ sở khoa KHTN, thành công tốt đẹp.
Xin chân trọng cảm ơn!
THỐNG NHẤT QUI CÁCH, NỘI DUNG THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ, BÀI GIẢNG VIẾT TAY CÁC MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN
I. MỤC ĐÍCH,YÊU CẦU
- Tạo tính thống nhất về qui cách, nội dung đưa lên các slide trình chiếu đảm bảo tính khoa học và hiệu quả sử dụng của bài giảng điện tử các môn khoa học tự nhiên.
- Tạo thuận tiện trong biên soạn, thông qua bài giảng điện tử.
- Đảm bảo tính khoa học, thống nhất đồng thời có tính mở để giảng viên phát huy tính sáng tạo trong thiết kế bài giảng điện tử.
- Phù hợp với phương pháp dạy học phát huy tính tích cực nhận thức của người học.
- Bài giảng điện tử phải sáng sủa, có lôgic chặt chẽ, hình thức các slide phải thống nhất; màu nền và màu chữ phải có độ tương phản cao.
- Bài giảng viết tay phải theo đúng qui cách, nội dung qui định của Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu.
II. CÁC QUI ĐỊNH CỤ THỂ VỀ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ
1. font, cỡ chữ, màu sắc chữ và nền:
- Toàn bộ bài giảng trình chiếu đều sử dụng các font chữ không chân (Ví dụ: Arial, Tomaho …).
- Lấy cỡ chữ font Arial làm cơ sở, các font khác chọn cỡ chữ tương đương.
- Màu nền và chữ phải hòa hợp có độ tương phản cao; nên dùng nền trắng chữ đen, nền xanh dương (Blue) chữ trắng; nền và chữ tránh dùng các cặp phối hợp của các màu đen,đỏ, xanh.
2. Trang bìa (có mẫu kèm theo)
Trang bìa qui định thống nhất toàn khoa như sau: sử dụng nền đơn giản không chèn ảnh nền.
- Phía trên, ở giữa có tiêu đề
TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 1 (font chữ in hoa cỡ 24, không đậm)
KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN ( font chữ in hoa cỡ 24, đậm)
- Phần trung tâm của bìa ghi (theo thứ tự từ trên xuống dưới)
+ Bài
+ Tên bài
font Bài và tên bài chữ in hoa, đậm, cỡ từ 38 đến 48 tùy theo độ dài của tên bài.
+ Giảng viên: ghi cấp bậc, học hàm, học vị, họ và tên người biên soạn (font cỡ 24 không nghiêng). Nếu là tiến sĩ viết là TS, thạc sĩ viết là Th.S, cử nhân thì không ghi. Ở mục cấp bậc không ghi theo kí hiệu, nếu là CCQP thì ghi là CCQP, nếu là QNCN thì ghi là QNCN.
+ Hà Nội, ngày, tháng, năm biên soạn: font cỡ 24, chữ nghiêng.
2. Trang giới thiệu ý định giảng bài (không ghi tiêu đề)
Là trang tiếp theo trang bìa, ghi các mục sau:
- MỤC ĐÍCH
- YÊU CẦU
- NỘI DUNG
- THỜI GIAN
- PHƯƠNG PHÁP
- TÀI LIỆU
Các mục trên sử dụng font chữ in hoa cỡ cỡ 28-32, đậm, cùng màu sắc. Phần nội dung chỉ ghi các nội dung chính trong bài giảng theo thứ tự nhưng không đánh chỉ số thứ tự, hàng dưới ghi trọng tâm: in nghiêng, khác màu và ghi nội dung trọng tâm là gì. Nội dung trọng tâm có thể thể hiện bằng cách đổi màu của mục được xác định là nội dung trọng tâm.
Mục thời gian ghi số tiết của bài giảng; các mục khác không ghi nội dung lên slide.
Nếu giảng dạy cặp tiết sau của bài và dạy ở một buổi khác thì có thêm một trang bìa trước cặp tiết đó gọi là Trang bìa phụ.
3. Trang MỞ ĐẦU
Ghi chữ MỞ ĐẦU in đậm, chữ thẳng, cỡ 48 , ở chính giữa slide. Không ghi nội dung của phần mở đầu, giảng viên nói nội dung phần mở đầu như bài giảng viết tay.
4. Các trang thể hiện nội dung bài giảng (gồm có 3 phần)
a) Phần tiêu đề (Title)
Phần này để thể hiện các tiêu mục của bài giảng, được ngăn cách với phần nội dung bởi đường kẻ ngang hoặc được phân biệt với phần nội dung bằng một băng ngang khác màu nền với phần nội dung; kích thước, màu sắc phải hòa hợp với phần nội dung và phần tiêu đề dưới.
Tiêu đề được chia thành nhiều cấp ( thông thường là 3 cấp)
- Cấp thứ nhất: Ghi tiêu đề lớn (Ví dụ: I. Chuỗi số), chữ in hoa, cỡ 28-32, màu sắc hòa hợp, tương phản cao với nền.
- Cấp thứ hai: Ghi tiêu đề cấp tiếp theo (ví dụ: 1. Khái niệm chung), chữ in thường, cỡ 28-32, màu sắc giống với tiêu đề cấp thứ nhất.
- Cấp thứ ba: Ghi nội dung tiêu đề, chữ nghiêng, cỡ 28-32 , màu sắc phù hợp với nền
Chú ý: Các tiêu mục phải được bố trí thống nhất (đẳng cấp, cùng màu, cùng font, cùng cỡ). Tiêu đề cấp một và cấp hai phải để trên phần nền của tiêu đề trên, thẳng hàng dọc. Riêng tiêu đề cấp 3 để trong phần nội dung bài giảng để phần tiêu đề bài giảng có tỷ lệ kích thước phù hợp. Tất cả các slide về nội dung bài giảng phần nền tiêu đề đều phải thể hiện ở 2 cấp.
b) Phần dưới của slide (Footer)
Phần này để thể hiện thông tin như tên bài, người biên soạn …. có kích thước cố định và phù hợp, được ngăn cách với phần nội dung bằng đường kẻ ngang hoặc màu nền khác với phần nội dung, chia làm 2 hoặc 3 phần:
Bên phải ghi “giảng viên: cấp bậc, học hàm, học vị, họ và tên giảng viên” chữ thường, cỡ 14 đến 18
Bên trái ghi tên bài chữ in hoa, cỡ 14- 18; nếu tên bài quá dài thì cho phép sử dụng viết tắt một số từ cho phù hợp với khuôn khổ footer.
Ở giữa là phần đánh số slide tự động hoặc ghi ngày tháng năm biên soạn chữ thường cỡ 14-18
Nếu chỉ chia làm 2 phần thì bỏ mục ở giữa.
Màu sắc của chữ trong mục này phải khác màu chữ trong phần nội dung nếu phần Footer chỉ được ngăn cách bằng một đường kẻ.
c) Phần nội dung (Text)
Đây là phần có kích thước lớn nhất dùng để trình bày nội dung bài giảng, thường dùng nền trắng để tạo độ tương phản cao với chữ. Cỡ chữ của phần này theo mặc định.
Nội dung các slide phải ngắn gọn, cô đọng được các điều chủ yếu, không dùng nhiều chữ trên một slide. Chủ yếu có các nội dung sau:
- Các khái niệm, định lí, định luật, hệ quả...
- Các vấn để giảng viên nêu ra. Kết luận của các vấn đề.
- Nội dung cốt yếu, kết quả cuối cùng của từng mục bài giảng.
- Các hình ảnh minh họa, hình vẽ, biểu đồ, sơ đồ, các mulimedia.
- Các yêu cầu cho bài học sau, bài tập về nhà.
Chú ý: Những phần học viên phải ghi chép nên có biểu tượng nhỏ (chẳng hạn bàn tay cầm cây bút) ở góc slide.
5. Trang KẾT LUẬN
Ghi chữ KẾT LUẬN in hoa đậm, cỡ như Trang MỞ ĐẦU , ở chính giữa slide. Không ghi nội dung của phần kết luận, giảng viên nói nội dung phần kết luận như bài giảng viết tay.
Vị trí của trang KẾT LUẬN ở phần cuối bài giảng.
6. Một số trang khác
a) Trang BÌA PHỤ
Nội dung trang bìa phụ như trang BÌA, chỉ khác là dưới tên bài có dòng tiếp theo nằm trong ngoặc đơn, chữ thường, nghiêng, cỡ 14-16.
b) Trang KIỂM TRA BÀI CŨ
Nếu việc kiểm tra bài cũ cần thiết phải chiếu nội dung lên slide thì có trang này. Chữ kiểm tra bài cũ in hoa, ở giữa, màu sắc như chữ MỞ ĐẦU, cỡ 42-44 phần bên dưới là nội dung kiểm tra bài cũ. Vị trí slide này ở đầu bài giảng trước trang bìa và trước trang BÌA PHỤ (nếu có).
c) Trang BÀI TẬP VỀ NHÀ
Nếu việc ra bài tập về nhà cần thiết phải chiếu nội dung lên slide thì có trang này. Chữ BÀI TẬP VỀ NHÀ in hoa, ở giữa, màu sắc và cỡ bằng như KIỂM TRA BÀI CŨ phần bên dưới là nội dung bài tập về nhà. Vị trí slide này ở cuối bài giảng sau trang KẾT LUẬN.
d) Trang CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Giáo viên cần định hướng các câu hỏi nghiên cứu ở bài học tiếp theo. Chữ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU in hoa, ở giữa, màu sắc và cỡ bằng như KIỂM TRA BÀI CŨ phần bên dưới là nội dung bài tập về nhà. Vị trí slide này ở cuối bài giảng sau trang BÀI TẬP VỀ NHÀ.
7. Sử dụng hiệu ứng, âm thanh, đồ họa, phim ảnh, hình vẽ, .....
- Không nên dùng hiệu ứng phức tạp (chỉ sử dụng khi thật cần thiết), hiệu ứng có tốc độ chậm, hạn chế tối đa âm thanh hiệu ứng. Các nội dung chú ý, nhấn mạnh có thể dùng hiệu ứng, âm thanh tùy ý để tạo sự sinh động.
- Sử dụng tối đa hình vẽ, đồ họa, phim ảnh, ảnh động để minh họa, miêu tả trực quan để người học dễ hiểu, nhớ nhanh. Các khái niệm có tính trừu tượng càng phải nghiên cứu mô tả nó bằng hình ảnh.
- Khuyến khích việc sử dụng mô phỏng, ứng dụng kỹ thuật 3D.
- Hình ảnh minh họa phải có chất lượng tốt, hình ảnh trung thực, chân phương, chuẩn tắc.
8. Kết hợp trình chiếu và phấn bảng
Phấn bảng phải kết hợp hài hòa với bài giảng điện tử. Ngoài những nội dung sẽ chiếu lên slide giảng viên phải sử dụng phấn bảng. Quá trình làm việc với học viên khi chưa ra kết quả cuối thì cần sử dụng phấn bảng. Tránh trùng lặp nội dung viết và chiếu.
III. CÁC QUI ĐỊNH VỀ BÀI GIẢNG VIẾT TAY
Bài giảng viết tay phải theo đúng qui cách, nội dung qui định của Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu. Ngoài ra cần thực hiện đúng một số qui định như sau:
- Trang bìa
+ Tất cả các nội dung ở trang bìa bài giảng đều phải ghi đầy đủ trừ mục “Số...”.
+ Mục Bài (Đề mục:) Ghi tên bài theo chương trình dạy. Trường hợp quyển soạn bài giảng dùng cho nhiều bài thì trang bìa (bìa xanh) ghi tên bài thứ nhất, các bài khác tạo trang phê duyệt và ghi như trang đầu trừ mục Bài (Đề mục: ) ghi tên bài thứ hai ….
+ Mục chỉ có dòng là các dấu chấm ghi cấp bậc, học vị (từ thạc sĩ trở lên), họ và tên của người biên soạn.
- Viết bài giảng không viết một mặt giấy hay cách dòng, phải viết đầy đủ cả hai mặt giấy.
- Phần MỞ ĐẦU: Nêu vị trí, ý nghĩa, phạm vi bài giảng, căn cứ biên soạn. Phạm vi bài giảng ở đây hiểu là khuôn khổ giới hạn của nội dung bài giảng (không phải liệt kê các nội dung bài giảng).
Ví dụ (Phạm vi Bài giảng Chuỗi): Bài giảng giới hạn ở các kiến thức cơ bản về chuỗi thực, đưa ra khái niệm chung về chuỗi số, chuỗi hàm; các phương pháp tìm sự hội tụ, phân kỳ của chuỗi số, chuỗi hàm mà trọng tâm là chuỗi số dương và chuỗi lũy thừa.
- Giới thiệu môn học: Bài giảng đầu tiên của môn học phải có phần giới thiệu môn học, thời gian từ 5 đến 7 phút. Nội dung bao gồm những vấn đề sau đây:
+ Ý nghĩa môn học nói chung và ý nghĩa môn học trong chương trình đào tạo của Nhà trường nói riêng. Khái quát ngắn gọn lịch sử phát triển của môn học.
+ Nội dung, chương trình môn học, hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, cách thức đánh giá thường xuyên, các hình thức động viên, khuyến khích.
+ Phương pháp giảng dạy của giảng viên, phương pháp học của học viên.
- Phần Kết luận:
Hệ thống, tóm tắt nội dung bài giảng, nhấn mạnh các nội dung cần tập trung nghiên cứu kỹ, yêu cầu nghiên cứu trước cho bài học tiếp theo, ra bài tập về nhà cho học viên.
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN HỌC Ở KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN
I.
YÊU CẦU
CHUNG:
Đổi
mới phương
pháp dạy
học lần
này phải
tạo ra
tính đột
phá về
dạy học
tích cực
thể hiện
ở chỗ:
học viên
phải tích
cực học
tập hơn
từ việc
đọc trước
tài liệu
đến học
tập trên
lớp. Giảng
viên không
truyền đạt
một chiều
mà chủ
yếu hướng
dẫn học
viên tự
giải quyết
vấn đề
do giảng
viên đặt
ra.
II.
DẠY HỌC
ĐỐI TƯỢNG
ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC
1.
Quan điểm:
-
Quan
điểm
chung:
Sử
dụng
chủ
yếu
phương
pháp
dạy
học
nêu
vấn
đề,
kết
hợp
với
các
phương
pháp
khác
như
thuyết
trình
tích
cực,
giao
đọc
tài
liệu
và
kiểm
tra
sau
(có
thể
trong
giờ
bài
tập
hoặc
buổi
học
sau).
-
Đối
với
bộ
môn
tin
học
là
dạy
học
thực
hành
sau
khi
nêu
vấn
đề,
chỉ
rõ
thao
tác
thì
dành
một
khoảng
thời
gian
ngắn
để
cho
học
viên
thực
hành
ngay
các
kỹ
năng
cơ
bản
(có
thể
là
một
yêu
cầu
thực
hành
một
vài
kỹ
năng
cơ
bản
vừa
giới
thiệu)
để
học
viên
ghi
nhớ.
Việc
rèn
luyện
tổng
hợp
và
nâng
cao
giải
quyết
trong
giờ
bài
tập.
-
Đối
với
bộ
môn
toán,
giảng
dạy
toán
cao
cấp
nội
dung
rất
nhiều,
tính
logic
rất
cao
trong
khi
đó
thời
gian
lại
ít.
Cần
tập
trung
vào
nội
dung
trọng
tâm
và
kiến
thức
cơ
bản,
ví
dụ
điển
hình.
Nội
dung
mở
rộng
có
thể
cho
học
viên
đọc
tài
liệu.
2.
Cách dạy
a)
Lựa
chọn
vấn
đề:
Mỗi
bài
chọn
1
đến
2
vấn
đề
trọng
tâm
của
bài
để
dạy
học
theo
phương
pháp
nêu
vấn
đề.
Vấn
đề
phải
là
trọng
tâm,
bao
gồm
các
kiến
thức
cốt
yếu
của
bài
học
mà
khi
thực
hiện
tốt
sẽ
cơ
bản
đạt
mục
đích,
yêu
cầu
của
bài
học.
Vấn
đề
phải
có
tính
hoàn
chỉnh
và
có
tính
khái
quát,
không
phải
là
chi
tiết.
b)
Cách
giảng
dạy
nêu
vấn
đề:
+
Giảng
viên
phải
nêu
được
vấn
đề
rõ
ràng,
ngắn
gọn,
dễ
hiểu
để
học
viên
nắm
được,
hiểu
được.
+
Hướng
dẫn
học
viên
giải
quyết
vấn
đề:
Sử
dụng
các
câu
hỏi,
đàm
thoại
dẫn
dắt
học
viên
tìm
ra
con
đường
để
giải
quyết
vấn
đề.
Giảng
viên
phải
kết
luận
được
các
bước
cần
phải
làm
để
giải
quyết
vấn
đề
đó,
sau
đó
hướng
dẫn
học
viên
làm
theo
từng
bước.
Trong
quá
trình
này
có
thể
sử
dụng
hình
thức
thảo
luận
nhóm
và
giảng
viên
điều
khiển
lớp
học
thảo
luận
tìm
ra
kết
quả.
Cuối
cùng,
giảng
viên
kết
luận
và
chiếu
lên
slide
kết
luận
vấn
đề
(đảm
bảo
ngắn
gọn,
cốt
yếu).
-
Một
số
vấn
đề
(thường
là
lí
thuyết,
có
tính
chất
khái
quát
)
có
thể
làm
theo
cách
như
sau:
Giảng
viên
nêu
và
giải
quyết
một
thí
dụ
đơn
giản
của
vấn
đề
mình
sắp
giảng.
Sau
đó
đặt
các
câu
hỏi
mở
rộng
ra
và
yêu
cầu
học
viên
khái
quát
thành
kết
quả
cần
tìm.
Kết
luận
và
cho
thí
dụ
áp
dụng.
-
Đối
với
vấn
đề
lớn,
giảng
viên
phải
chia
thành
nhiều
vấn
đề
nhỏ
có
tính
chất
tuần
tự
kế
thừa
các
bước,
hướng
dẫn
học
viên
giải
quyết
từng
bước
một.
Có
thể
cho
thảo
luận
nhóm
với
mỗi
bàn
là
một
nhóm,
giao
cho
mỗi
nhóm
một
bước
(chú
ý
phải
phù
hợp
với
khả
năng
của
từng
nhóm,
nghĩa
là
nhóm
có
khả
năng
tốt
giao
cho
bước
khó,
nhóm
nhận
thức
yếu
hơn
giao
cho
bước
dễ
làm
hơn).
-
Đối
với
các
vấn
đề
có
cách
giải
quyết
tương
tự
thì
giảng
viên
chỉ
làm
kỹ
một
vấn
đề,
các
vấn
đề
khác
chỉ
cần
nói
cách
giải
quyết
tương
tự
vấn
đề
đã
làm.
-
Với
bộ
môn
toán,
cần
chuẩn
bị
thật
tốt
hệ
thống
câu
hỏi
nêu
vấn
đề
(cần
làm
cho
học
viên
thấy
đích
rõ
đến
của
vấn
đề)
và
các
câu
hỏi
để
gợi
ý
dẫn
dắt
học
viên
giải
quyết.
Không
lạm
dụng
hình
thức
thảo
luận
nhóm.
Khai
thác
tối
đa
sơ
đồ,
hình
vẽ,
mô
phỏng.
III.
VỚI ĐỐI
TƯỢNG CỬ
TUYỂN VÀ
CÁC ĐỐI
TƯỢNG CAO
ĐẲNG
Nhóm
đối
tượng
này
phải
sử
dụng
phương
pháp
một
cách
linh
hoạt,
đòi
hỏi
cao
về
nghệ
thuật
dạy
của
giảng
viên.
Sau
đây
là
một
số
chú
ý:
+
Không
vì
nhận
thức
yếu
mà
không
dạy
tích
cực,
chỉ
làm
mẫu
và
bắt
chước.
+
Dùng
ví
dụ
đơn
giản,
khái
quát
thành
lí
luận,
thành
qui
trình
rồi
mới
cho
làm
bài
tập
vận
dụng.
+
Sử
dụng
thảo
luận
nhóm
với
cách
chia
vấn
đề
như
nói
ở
trên,
yêu
cầu
cả
lớp
phải
làm
việc
+
Học
viên
không
nắm
được
cái
gì
ở
kiến
thức
cũ,
giảng
viên
có
thể
cung
cấp
trực
tiếp
cái
đó,
không
nên
hệ
thống
lại
toàn
bộ
vì
không
có
thời
gian
và
làm
ngắt
quãng
bài
giảng
(có
thể
hệ
thống
lại
trong
giờ
bài
tập).
+
Tăng
cường
động
viên,
khuyến
khích
+
Không
tham
kiến
thức,
không
tham
bài
tập
khó,
tập
trung
làm
tốt
các
kĩ
năng
cơ
bản,
nội
dung
trọng
tâm.
IV.
BÀI GIẢNG
ĐIỆN TỬ
Bài
giảng
điện
tử
không
phải
để
thay
cho
phấn
bảng.
Bài
giảng
điện
tử
phải
sáng
sủa
có
lôgic
chặt
chẽ,
hình
thức
các
slide
phải
thống
nhất,
các
tiêu
mục
phải
được
bố
trí
thống
nhất
(đẳng
cấp,
cùng
màu,
cùng
font,
cùng
cỡ).
Không
dùng
nhiều
hiệu
ứng
phức
tạp,
màu
sắc
không
trang
nhã,
hạn
chế
tối
đa
âm
thanh
hiệu
ứng,
đảm
bảo
độ
tương
phản
cao
giữ
màu
nền
và
màu
chữ.
Các
nội
dung
chú
ý,
nhấn
mạnh
có
thể
dùng
tùy
ý
để
tạo
sự
sinh
động.
Nội
dung
các
slide
phải
ngắn
gọn,
cô
đọng
được
các
điều
chủ
yếu,
không
dùng
nhiều
chữ
trên
một
slide.
Trên
bài
giảng
điện
tử
chủ
yếu
để
đưa
các
nội
dung
sau:
-
Tên
bài,
các
tiêu
mục
của
bài
giảng
(dàn
bài
của
bài
giảng)
-
Các
vấn
để
giảng
viên
nêu
ra.
Kết
luận
của
các
vấn
đề.
-
Nội
dung
cốt
yếu,
kết
quả
cuối
cùng
của
từng
mục
bài
giảng.
-
Các
hình
ảnh
minh
họa,
hình
vẽ,
biểu
đồ,
sơ
đồ,
các
mulimedia.
-
Các
yêu
cầu
cho
bài
học
sau,
bài
tập
về
nhà.
Chú
ý:
Những
phần
học
viên
phải
ghi
chép
nên
có
biểu
tượng
nhỏ
(chẳng
hạn
bàn
tay
cầm
cây
bút)
ở
góc
slide.
V.
SỬ DỤNG
PHẤN BẢNG
Phấn
bảng
phải
kết
hợp
hài
hòa
với
bài
giảng
điện
tử.
Ngoài
những
nội
dung
sẽ
chiếu
lên
slide
giảng
viên
phải
sử
dụng
phấn
bảng.
Quá
trình
làm
việc
với
học
viên
khi
chưa
ra
kết
quả
cuối
thì
cần sử
dụng
phấn
bảng.
Tránh
trùng
lặp
nội
dung
viết
và
chiếu.
VI.
SỬ LÍ
MỘT SỐ
MÂU THUẪN
1.
Mâu thuẫn
giữa nội
dung nhiều
và thời
gian giảng
dạy ít
Lựa
chọn
vấn
đề
trọng
tâm
để
làm
kỹ,
các
vấn
đề
khác
có
thể
đi
nhanh,
nêu
tinh
thần
cốt
yếu
hoặc
giao
học
viên
tự
đọc
tài
liệu
(phải
nêu
được
tinh
thần,
kết
quả,
vấn
đề
tại
sao
có
kết
quả
học
viên
tìm
hiểu
trong
tài
liệu)
2.
Mâu thuẫn
giữa nội
dung vấn
đề lớn,
khó và
nhận thức
của học
viên
Chia
vấn
đề
thành
nhiều
vấn
đề
nhỏ
vừa
sức
với
học
viên,
các
vấn
đề
vượt
tầm
tự
học
của
học
viên
thì
giảng
viên
kết
luận.
3.
Mâu thuẫn
giữa học
viên giải
quyết vấn
đề mất
nhiều thời
gian và
việc thực
hiện đúng
kế hoạch
giảng bài.
Giảng
viên
phải
căn
cứ
kế
hoạch
giảng
bài
để
điều
chỉnh,
không
được
lạm
dụng
thời
gian
cho
dạy
học
nêu
vấn
đề
mà
ảnh
hưởng
đến
việc
dạy
các
phần
khác.
Nếu
gần
hết
thời
gian,
học
viên
đã
gần
đến
kết
quả
thậm
chí
vẫn
chưa
làm
được
thì
giảng
viên
kết
luận
ngay.
4.
Mâu thuẫn
giữa nhận
thức không
đồng đều
của học
viên và
mức độ
phù hợp
của vấn
đề nêu
ra với
các học
viên trong
lớp.
Để
kích
thích
cả
lớp
làm
việc,
giảng
viên
phải
biết
chia
vấn
đề
thành
nhiều
mức,
giao
cho
các
nhóm
làm
việc
cho
phù
hợp
với
từng
nhóm
nhận
thức.
Phải
sử
dụng
cả
xung
phong
và
gọi
bất
kỳ
để
cả
lớp
làm
việc.
5. Mâu
thuẫn giữa
học viên
ít thời
gian đọc
tài liệu
và nội
dung đọc
tài liệu
ở nhà
nhiều.
Đây
là
một
thực
tế,
để
giải
quyết
vấn
đề
này
và
tạo
điều
kiện
cho
học
viên.
Nếu
giảng
viên
chỉ
nói
đơn
giản
là
các
đồng
chí
về
đọc
trước
bài
A
thì
không
ổn
(nội
dung
bài
dài,
khó,
học
viên
không
có
thời
gian
đọc
hết
được).
Giảng
viên
phải
đặt
yêu
cầu
cụ
thể
cho
việc
đọc,
nghĩa
là
phải
nói
rõ
học
viên
chú
ý
đọc
phần
gì
(có
thể
khái
quát
thành
câu
hỏi)
và
nêu
vấn
đề
sẽ
thảo
luận
ở
bài
sau
để
học
viên
chuẩn
bị
tốt
cho
phần
trọng
tâm
đó.
như
vậy
học
viên
có
thể
xem
nhanh
những
phần
không
phải
là
trọng
tâm
(vì
học
viên
không
có
thời
gian).
VII.
CHÚ Ý
-
Hình
ảnh
bao
giờ
cũng
dễ
nhớ,
nhớ
lâu
hơn
lời
nói,
dùng
trực
quan
để
miêu
tả
các
vấn
đề
trừu
tượng
dễ
hiểu
hơn
dùng
lời
nói.
Do
đó
cái
gì
có
thể
dùng
biều
đồ,
sơ
đồ,
hình
vẽ,
mô
phỏng,
video
để
diễn
tả
được
thì
phải
khai
thác
tối
đa.
-
Cần
hiểu
rằng,
học
viên
nói
ra
(thậm
chí
đọc
từ
tài
liệu
ra)
để
trả
lời
câu
hỏi
hay
vấn
đề
giảng
viên
nêu
ra
cũng
đã
là
thành
công
rồi,
cũng
hơn
là
giảng
viên
tự
nói
điều
đó
ra
rồi.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
QUYẾT TÂM TÔ THẮM CỜ HỒNG BÁC TRAO
Tác giả: Lê Nhất (Bài thơ đạt giải A Cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống Trường Sĩ quan Lục...
-
Mình vừa biên soạn mẫu bài giảng bằng LaTe bao gồm: Mẫu bìa. mẫu kế hoạch giảng bài, mẫu bài giảng, mẫu bài giang điện tử . Tất cả đều được ...
-
Bài này tôi viết tặng 11 cô giáo dạy toán trường Sĩ quan Lục quân 1 cách đây mấy năm . Khi đó chưa đặt tên và chưa ...
-
71 xuân chưa già Tặng Bà Vinh ở 151 Triệu Việt Vương , Hà Nội ------ Bảy mốt mùa xuân chẳng lão đâu Sống vui sống khỏe tr...