Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Bình bạn Sơn

Tối qua xem ảnh bạn khoe trên facebook. Kèm theo câu đề " vợ trở  về nhà lợi hại hơn“. Tôi mượn đề ấy làm 2 khổ thơ:
Vợ đã lại nhà lợi hại hơn
Biết làm sao đặng hả Anh Sơn
Võ công tu luyện chi cho cực
Nhường quách chị đi ấy tốt hơn
------------
Trả lời thay bạn
Mình dù nhường chị có sao đâu
Chồng vợ thuận hòa đã bấy lâu
Nhường chị chị thêm yêu dấu tớ
Hạnh phúc là đây nỏ ở đâu
 

Sáng cuối năm 2013

2014 đến thềm nhà
Ríu rít trên ngành tiếng hót ca
Rực rỡ nắng vàng trong gió nhẹ
Tình xuân cảm nhận sướng lòng ta
Có đâu tóc bạc đã là già
Tươi sáng tinh thần trẻ mãi ta
Cuộc sống do mình hay kẻ khác
Tươi đẹp hay không tại ở ta

Ông Chu Dung Cơ (Bài 1)

Ông Chu hiểu đạo thật thâm sâu
Triết lí cuộc đời  có nói câu
Cao ghế sao bằng cao tuổi thọ
Thanh cao sánh thọ thọ thua mau
Thế nên mới biết việc đời người
Nhẹ nặng cân đong phải thật sâu
Lũ ngố theo đàn đâm đầu húc
Ăn xôi cố đấm ngó buồn rầu

------------
Chu Dung Cơ nguyên là Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2013

Tặng Nam và Dung có thêm con gái

Xem ảnh cháu mình, lòng vui làm mấy câu:


Bầu đôi má gái miền Kinh Bắc
Mắt huyền kia thắc mắc chi đây
Rồi đây chẵn tháng qua ngày
Nhất Lê bác sẽ đến ngay chúc mừng
Bồng cháu gái Bác thơm Bác nựng

Nói những lời chứa đựng muốn mong
Mừng cho Kinh Bắc Lam Hồng
Phúc thêm tình mãi nàn nồng hương xuân


 

Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013

Tặng Nguyễn Hồng Thái nhân ngày vợ của Thái tốt nghiệp

Vui quá vì vợ mình thành đạt
Hoa tươi này đẹp tựa tình ta
Mong em học vẫn tiến xa
Việc đời thuận lợi việc nhà đảm đang
Đời có gặp trùng dương bão tố
Anh cùng em ta cố vượt qua
Đưa thuyền hạnh phúc chúng ta
Cập bờ thắng lợi vui hòa tương lai

Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013

Tặng liên hoan mừng thành công văn nghệ của khoa Ngoại ngữ Tiếng Việt

Gió lạnh trời cao mặc sức gào
Tập rèn văn nghệ khí đương cao
Khoa nhà Tiếng Việt ta ta đó
Nhất giải nhất sao nhất tự hào

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

Liên hoan khép lại hội thao văn nghệ năm 2013

Hội thao văn nghệ đã ngừng rồi
Uống rượu mừng vui vui quá thôi
Tháng ngày vất vả bạn ơi
Đến nay là lúc thảnh thơi vui hòa
Nhớ lại lúc chúng ta tập luyện
Rất hăng say mà lại vui vầy
Ba cô giáo trẻ tóc mây
Trúc xinh điệu lí xin mời thăm Khoa
Bỗng vang khúc hò ca kéo lưới
Tiếng ca như nhắn nhủ cùng ai
Thao trường anh tập bắn bài
Ở nhà em đợi vui lòng chờ anh
Phút đâu bước ra nhanh có bác
Chất choa kia hào sảng giọng thơ
"Trăm năm trong cõi" đến giờ
Ai ai cũng phải nhớ thơ bác này
Thơ lắng xuống hòa nhanh tiếng hát
Tiếng hò reo chốc nhát lại vang
Bạn ơi vui sướng rỡ ràng
Một ngày biểu diễn đã mang bao tình
Tự Nhiên đó thắm tình đoàn kết
Chúng ta đây giải cũng đón mong
Tuy rằng giải lớn không xong
Thắm tình đồng chí trong lòng vui thay
Lòng vui sướng nắm tay bước tới
Xây khoa ta thắng lợi thêm cao
Nào ta đứng cả lên mau
Cùng nâng chén rượu chúc nhau đi nào
----
Đang sửa lại bài này theo tứ khác:
---
Hội thao văn nghệ đã ngừng rồi
Đầy ắp liên hoan mắt môi cuời
Chén rượu đầy vơi còn rót mãi
Tâm tình chia sẻ rộn bên tai

Vất vả tháng này tháng mười hai
Trời rét căm căm vẫn say hoài
Trúc xinh điệu lí em luyện tập
Môi hồng má thắm tóc mây bay

Lời ca em hát khiến anh say
Cùng em anh cũng muốn trổ tài
Kéo lưới hò khoan hòa em đó
Thao trường nhắn đợi ấy lời ai

Nắm tay cùng bước tới diễn đài
Điện quang sáng lóa, tiếng reo dài
Bao nhiêu hy vọng màn ni đấy
Anh biết rằng em sẽ hát hay

Để không thất vọng những chờ mong
Để không hoài phí tháng năm ròng
Để không làm phụ tình anh đó
Để dẫn lòng anh tiếng hát chung

Nhạc nổi lên rồi hỡi em ơi

....sẽ làm tiếp, giờ đang vội

Bình ảnh Tách đăng

Dẫn: Bạn Tách post cái ảnh cũ ngày xưa với câu đề: "Có một thời như thế các bạn ơi". Xem ảnh nghĩ cảnh xưa cảm  mấy vần.




Có một thời như thế
Cơm ăn no không thể
Người gày guộc trơ xương
Đằng trước chỉ xương sườn
Đón gió trăng cho mát
Nhưng ở trong đôi mắt
Luôn thấy ánh vui tươi
Gặp nhau rộn tiếng cười
Chẳng lo toan chi cả
Nỏ có điều cấn cá
Sống thật đẹp thật vui
Biết cho được bao giờ
Lại như thời đó nhể???

Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2013

Mừng cậu Hiệu đạt giải cao

Xem ảnh cậu khoe đạt giải vàng
Nên thơ bình trước phải sửa sang
Chú Hiệu rộng cười to quá nhỉ
Hẳn là giọng hát sẽ ầm vang
------------------
Hẳn là giọng hát sẽ ầm vang
Chị em phụ múa có ngỡ ngàng
Nay mai còn có văn nghệ nữa
Ta sẽ lại ôm cái giải vàng
------------------
Tớ xin chúc mừng cậu bạn già
Già tất nhưng thứ đó không già
Giọng hát vỡ òa không khí hội
Nức lòng ai ở Hội trường A.

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013

Trả lời bài thơ của Cao Hà

Mượn bài thơ của Cao Hà
-----
Khoa em có anh Nhất Lê;
Đẹp trai lại giỏi văn nghề mới kinh;
Chị em chớ có tỏ tình;
Hai con một vợ mỗi mình còn đâu;
Tuy nhiên chớ có buồn rầu;
Anh vẫn múc nước gội đầu cho em!ke ke
-----------------------------------
Tôi trả lời bài thơ trên như sau:
-------
Khen em văn vẻ hay ghê
Làm thơ em tặng Nhất Lê tức thì
Đẹp trai với lại văn nghề
Thật không quan trọng bằng mê cái tình
Có gì đâu nghĩ mà kinh
Hai con một vợ vẫn tình chứ sao
Tình này rất mực thanh tao
Phải đâu sớm mận tối đào với ai
Khi nào hội hát lại khai
Tay anh múc nước gội dài tóc em

Mừng sinh nhật cô gái quê choa (Nguyễn Thị Vinh-PCN BM Tin học)

Qua book face biết em sinh nhật
Gửi mấy lời thay bó hoa tươi
Chúc em luôn nở nụ cười
Việc nhà phải đạo việc đời hanh thông
Trời giá lạnh tiết đông sắp hết
Xuân về đầm ấm tết năm ni
Đón xuân thêm tuổi vui thay
Bình an hạnh phúc tràn đầy nhà em

Mừng sinh nhật Nguyễn Hữu Định qua facebook

Biết sinh nhật em Định (Anh em gọi vui là Trung ủy) qua facebook. Tặng em mấy câu thơ:


Chúc Trung ủy được nhiều vui sướng
Sức khỏe hơn bút nét thêm sang
Chỉ tiếc rằng mình không có mặt
Nâng ly chúc tụng chén quỳnh tương

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

Cười cùng facebook

Trong làng facebook ắt cần cười
Cười càng nhiều được đời càng tươi
Bảo anh bán thuốc đi chỗ khác
Ỏ xóm cuời này bán lỗ thôi

Bình ảnh chụp bạn Sơn 2

Trên facebook có đăng ảnh chụp các chàng trai Khoa Ngoại ngữ Tiếng Việt vừa biểu diễn phục vụ Nhà trường về. Theo dòng bình luận tôi góp một đoạn thơ vui
Thơ rằng:


Tiếng Việt thất quái đứng dàn ngang
Thủ lĩnh hiên ngang đứng trái cùng
Kinh tài rầm rột bên phải tận
Ngũ chú xênh xang xếp giữa hàng
Áo xanh lót trắng môi cưòi nụ
Văn nghệ vừa qua thắng vẻ vang
------------------
Văn nghệ vừa qua thắng vẻ vang
Thế nên hàng xếp mới xêng xang
Chú Hiệu rộng cuời to quá nhỉ
Hẳn là giọng hát sẽ ầm vang
------------------
Hẳn là giọng hát sẽ ầm vang
Chị em phụ múa có ngỡ ngàng
Lần sau còn có văn nghệ nữa
Ta sẽ hát cho được giải vàng
------------------
Kìa chàng đeo kính đứng như ngay
Phụ hát sao mà khó thế thay
Khó thế mà ta vẫn hát được
Lọ cầu rèn tập hát vẫn hay
-----------------
Lọ cầu rèn tập hát vẫn hay
Bốn chú còn lại nhất trí ngay
Thế nên ảnh chụp thần hăng hái
Hăng hái cho nên mới thế rày

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

Văn chương có để làm gì?

Văn chương đó chính là người
Cho nên ta phải đủ mười gắng hơn
Ở đời buồn giận đòi cơn
Thì xem văn ấy giận hờn hết ngay
Tài chi mấy chú râu mày
Nói ra dốt nát viết bày như ngây
Cho dù tiền bạc cao dầy
Sao bằng tiền ít nhưng đầy nhân văn
Sống vui vẻ chẳng khô cằn
Văn chương rèn tập hái hăng tinh thần
Thanh tao sẽ đến dần dần
Ngày vui ngày lãi đời xuân thật dài

Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

Văn nghệ quần chúng Khoa KHTN năm 2013

                                                   Tiết mục mở màn






Tiết mục hát nữ

                                

Tiết mục kịch

                                 

Tiết mục hát tập thể


                                




Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Tặng văn nghệ của Khoa Ngoại ngữ Tiếng Việt đêm nay

Chúc văn nghệ của khoa rực rỡ
Thành công to cho rạng mặt anh hào
Bí thơ tâm sức dồn vào
Các đô các chị hứng hào múa ca
Trời buốt lạnh há ngăn nhiệt huyết
Diễn đêm nay muôn nở những nụ hoa
Ngập tràn lời nói thiết tha
Rượu keng bia bụp chúng ta tiệc bàn
Rưng rưng tình cảm dâng tràn
Cả khoa hoan hỉ bạn vàng bâng khuâng

Vịnh cuộc rượu vui

Dẫn:Uống rượu với bạn vui vẻ làm mấy câu thơ
---
Uống rượu cùng nhau vui quá cơ
Học đòi anh Thống1 tập làm thơ
Rượu đà dăm chén xem chừng ngấm
Cao hứng hồn thơ khó hững hờ
---
Thơ rằng:
Trời buốt lạnh gió đông thổi tới
Cấp ủy ta ngồi với bạn đây
Cùng nhau nâng chén rượu đầy
Thắm tình hữu nghị vui nầy đâu hơn
Nào chẳng phải nhường cơm sẻ áo
Hai mấy năm thơm thảo yêu thương
Kể chi những chuyện tầm thường
Chung vai gánh vác việc trường việc khoa
Nâng ly rượu chúng ta cùng nói
Dắt tay nhau đi tới thành công
Một lời tạc dạ ghi lòng
Tấm tình son sắt còn mong hơn gì?
Rượu đã ngấm tình chi không ngấm
Gió ngoài trời buốt thấm da xương
Mặc cho gió táp mưa cường
Cơ vui vui hết xem thường nên không? 
Bao giờ lại có gió đông?

1Một cán bộ của Nhà trường có tài ứng khẩu thành chương nhất là khi uống rượu vui vẻ

Dịch thơ văn Pháp

Tác giả: Lê Đức Mậu
Dẫn: Phần chữ pháp nhớ không đầy đủ nên không chép ra đây. Và chính là lời văn dịch của tôi đã trên 50 năm rồi, và cũng là những lời dạy của các nhà văn Phương Tây rất có ý nghĩa nên tôi cố gắng nhớ ghi lại đây làm kỷ niệm
Bài1 Con Quạ và con cáo
Quạ kia đậu chót trên cao
Mỏ còn ngậm bánh ngọt ngào thơm bay
Cáo kia đã biết bén mùi
Tới gần ngon ngọt mừng vui hỏi chào
Bác ơi! bác đẹp dường bao
Thoắt trông tôi đã lắc đầu ngợi khen
Ví bằng thanh sắc vẹn tuyền
Hẳn rằng chim phượng nổi lên xứ này
Quạ nghe xiết nỗi mừng vui
Khoe mình cất tiếng bỏ mồi rơi ngay
Cáo ta đã chụp lấy mồi
Lại còn đua giọng mỉa mai giỡn đùa
Bác ơi mấy kẻ a dua
Cốt ăn ở những kẻ ưa hót mình
Mấy lời giáo hối đinh ninh
Khác gì bánh sữa của anh ngọt ngào
Quạ nghe hổ thẹn dường bao
Thề rằng dại ấy từ sau cũng chừa
Chậm rồi còn biết sao giờ

Phụ câu thuộc lòng của tôi
Bác quạ bởi nghe lời cáo hót
Mất mồi lại lớn tiếng cười chê
3 đời chớ có nghe người nịnh
Cái lưỡi gian hùng thật gớm ghê
Bài 2:Con ve và con kiến
Ve kêu suốt mấy tháng hè
Đến mùa đông tới khó bề tính toan
Chẳng còn thóc bọ mà ăn
Phải sang nhà kiến kêu van đói nghèo
Xin vay lương thực ít nhiều
Đem về xây tổ ăn tiêu đỡ thời
Hẹn rằng chẳng dám sai lời
Mùa sau sẽ tính bốn lời giả ngay
Kiến kia dạ cũng hẹp hòi
Đã không cho mượn lại rầy nọ kia
Hỏi ve mùa nắng làm gì?
Ve rằng tôi chỉ thích nghề hát thôi
Tôi hát có hại gì ai?
Kiến rằng hát cũng là hay chứ nào?
Bây giờ lại múa xem sao
----------------
Câu thuộc lòng:
Ở đời phải biết lo dành trữ
Nước đến chân rồi liệu khó xong
Giống giả ve sầu kêu chẳng ích
Khi cùng vay Kiến cực hay không?

Bài 3: Sự chết và anh đốn củi
Chàng đốn củi xiết bao khó nhọc
Gắng nặng nề nhánh nhóc ngổn ngang
Tuổi già sức yếu thở than
Cũng liều gắng bước khó khăn quay về
Vì sức yếu muốn đi không thể
Hạ gánh vai ngồi nghỉ cơn sầu
Suốt đời ta sướng gì đâu
Mà xem thiên hạ ai nào khổ hơn
Đã lắm phen thiếu luôn ngày bữa
Chửa khi nào được chữ nhàn thân
Nào là công việc nợ nần
Vợ con lãnh thuế muôn phần lo âu
Ngán thân phận tranh sầu đã vẽ
Chỉ ngồi cầu chết sẽ tới mau
Hẳn như lòng có sở cầu
Chết liền tới hỏi trước sau việc gì
Chàng đốn củi hết bề than khổ
Chỉ thưa rằng xin đỡ gánh vai
Cho hay muôn bệnh ở đời
Đến khi một thác khỏi ngay tức thì
Nhưng ta chớ vân vi phận số
Phải nhịn đau chút khó mới hay
Chớ rằng chịu chết như ai
-------------
Câu thuộc lòng:
Ở đời phải vượt hết gian nan
Có khổ rồi sau mới có nhàn
Đốn củi chàng kia không chịu khó
Chỉ ngồi đợi chết, chỉ than van

Bài 4: Le lion et le sat (Con sư tử và con chuột)
Ở đời chớ cậy mình hơn
Dù sao cũng phải biết ơn mọi người
Dẫu mình to lớn mười mươi
Thế nào cũng phải cần người nhỏ nhen
Xem bài này đủ làm tin
Suy ra mới biết chứng minh rõ ràng
Chuột kia vừa ló khỏi hang
Đụng vào sư tử sợ quàng hóa ngây
Sư tử trông thấy thương thay
Khoan dung mở lượng tha ngay chẳng ngờ
Thương người đành được báo ơn
Biết đâu sư tử lại cần chuột kia
Việc đời ai biết mà suy
Thế mà sư tử có khi nhỡ nhàng
Ra chơi vừa khỏi mái rừng
Liền tương vào lưới khó đường thoát ra
Kêu van gầm thét mệt mà
Chuột kia nghe tiếng từ xa tới liền
Nghiến răng cắn đứt dây triêng
Cứu chàng sư tử báo đền ơn xưa
Cho hay hùng hục cũng dư
Sao bằng kiên nhẫn từ từ là hơn
---------------
Câu thuộc lòng:
Ở đời chớ cậy mình to lớn
Đừng nói không với kẻ nhỏ nhen
Sư tử nếu không nhờ chuột cứu
Vẫn nằm trong lưới vẫn gầm rên

Bài 5: Le chêne et le roseau (Cây dẻ và cây lau)
Một ngày dẻ nói cùng lau
Giời sinh anh thế anh sao chịu đành
Một cơn gió thoảng vô tình
Lướt qua mặt nước lay mình anh xiên
Một con chim nhỏ liu điu
Đậu lên nào khác gánh trìu vai anh
Còn tôi cao tuốt non xanh
Nắng không thể giọi bão đành khó lay
Đòi cơn gió thổi tả tơi
Anh thì sợ lắm tôi thì mát thay
Sợ rằng anh có duyên may
Được sinh trưởng dưới thân này gì hơn
Dù khi gió kép mưa đơn
Có ta che chở bớt cơn ngại ngùng
Trách giời kia cũng không công
Lại bắt anh ở những vùng gió lay
Lau nghe dẻ nói mấy lời
Thưa rằng anh chớ lo tôi làm gì
Lời anh thâm thiết dường kia
Nghe ra thì cũng như chia tấm tình
Nhưng anh phải xét cho rành
Sợ khi gió bão hại mình anh hơn
Tôi dù nào vẫn đứng luôn
Anh dù chống chọi đòi cơn vững vàng
Nhưng anh chớ có khoe khoang
Đợi khi kết quả rõ ràng sẽ hay
Quả nhiên lau nói dứt lời
Phút đâu trận gió chân trời gớm ghê
Theo làn gió bấc bay về
Dẻ còn đứng vững lau kia nao liền
Ngờ đâu gió thổi đảo điên
Dẻ dù cao mấy ngã liền một khi
Còn lau chẳng có hề gì
------------
Câu thuộc lòng:
Càng cao thì gió càng lay
Càng khoe khoang lắm có ngày hiểm nguy


Bình ảnh bạn Sơn

Trên facebook có đăng bức ảnh bí thư Sơn đang chỉ đạo văn nghệ của khoa. Theo dòng bình luận, Tôi góp 2 đoạn thơ sau

Trông Sơn Phạm ra chiều suy nghĩ
Ẩn bên trong có ý gì đây?
Giải to sắp giật tới ngày
Cả khoa hoan hỉ công này ai xây?

----------------
Bác Bí thơ kiêm trùm văn nghệ
Quyết phen này chẳng chịu nhường ai
Chị em phải cố bằng hai

Tôi nay cũng nguyện ngừng bài thôi chơi
Nghị quyết chi bộ ra rồi
Tiến lên ta quyết đứng đầu cụm ni
Cơm ngon phải có tí cay
Khi nào giật giải sẽ bày khao to
Các đô, các chị chớ lo!!!

Những câu cách ngôn dạy con cháu

Tác giả: Lê Đức Mậu
1) Tương lai cốt ở tay cần mẫn
Những bậc thông minh nỏ chắc gì
Tăng Tử ngày xưa người lộ độn
Đạo truyền đức Khổng tiếng còn ghi
----------
2) Có lỗi thì ta chịu lỗi ngay
Ấy là đức tốt ấy điều hay
Xưa thầy Tử Lộ mừng nghe lỗi
Nổi tiếng về sau bậc đại tài
----------
3) Chớ để vào tai những tiếng khen
Nghe lời chỉ trích mới hòng nên
Đảo điên xí xóa hòng che lỗi
Chẳng lợi cho mình, hại lắm phen
----------
4) Lười biếng chơi bời thêm khổ cực
Siêng năng cần mẫn mới giàu sang
Mau mau ta phải lo làm việc
Làm việc là kho để đựng vàng
---------
5) Công danh đường có hẹp gì ai?
Mài sắt nên kim hẳn có ngày
Hai chữ nhẫn kiên ta phải nhớ
Nửa đường bỏ dở rõ người ngây
---------
6) Trăm việc không thành thẹn biết bao
Ngã lòng vì mắc bệnh tình sâu
Mau mau ta phải lo tìm thuốc
Cắt chén yên thần uống khỏi mau
---------
7) Ở đời riết rác nỏ làm chi
Qua chuyện là hơn lợi có khi
Vơ vét cho đầy thêm nhục xác
Của tham nó cũng kiếm đường đi
---------
9) Cái bệnh xa hoang nếu chẳng  chừa
Người giàu khốn đốn kẻ nghèo hư
Huống chi lại gặp hồi khôn khó
Tiết kiệm mau đi chớ trễ giờ
---------
10) Đẹp đến hoa ghen đến liễu hờn
Cũng đồ trang sức giả màu sơn
Tam tòng tứ đức gương sáng tỏ
Trang điểm tinh thần đẹp ấy hơn
---------
11) Khổ đến mười mươi chớ giận hờn
Ở đời còn lắm kẻ cùng hơn
Cảnh tình ta phải suy cho xiết
Phải biết yên thường mới kẻ khôn
---------
12) Rày bậc mai nam không định chí
Phong trần vất vả biết bao thôi
Ở đời phải có lòng hy vọng
Hy vọng làm ta sướng cả đời
---------
13) Cửa thánh ra vào khi sớm tối
Học hành vui thú biết chừng bao
Một mai trên bảng tên rầm rột
Đọc sách càng thêm phẩm giá cao
---------
14) Trẻ con tập nhiệm trong nhà cửa
Giáo dục gây nên bởi các bà
Xin hãy chăm nom mầm tuổi trẻ
Ngày xuân đua nở nức mùi hoa
---------
15) Học thói người đời khôn có ít
Xem gương cổ tích biết nhiều hơn
Những pho sách cũ hồn xưa rạng
Ta phải năm canh để ý hơn
---------
16) Có thẹn trong lòng mới biết căm
Việc làm hăng hái gấp nghìn trăm
Xưa Trần Quốc Toản danh lừng lẫy
Bởi chí hờn căm bóp quả cam
---------
17) Ta phải nhanh nhanh lo bước tới
Thì giờ thấm thoắt có chờ đâu?
Một vùng ánh sáng câu qua cửa
Bóng tối mơ màng để lại sau
---------
18) Ở trong nhà cửa không rèn tập
Đến lúc ra đời hóa dở dang
Ta phải chăm lo từ thuở bé
Ngày xuân hoa nở nức mùi hương
---------
19) Ở đời không phải sống mà chơi
Sống để chăm lo mọi việc đời
Thân thể tinh thần nên dung hết
Góp phần bổ ích mới là hay
---------
20) Văn thơ ai bảo là vô bổ
Nước có văn thơ gấm trổ màu
Nguyễn Trãi người xưa ta vẫn nhớ
Văn chương hoa quốc tiếng dài lâu


Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Thơ an ủi bạn tuổi nhiều thoái chí

Tác giả: Lê Đức Mậu (Kỳ Nam hữu Tự)
Bốn chục xuân thu tuổi mấy mươi
Công danh ai đã bảo rằng thôi
Tám mươi Lã Vọng còn ra trận
Bảy chục Hoàng Trung vẫn trổ tài
Cỡi sóng lẽ nào theo gió cuốn
Cầm sào há chịu để thuyền trôi
Làm trai đứng giữa phong trào mới
Phải đóng vai hay góp với đời

Thơ ca tả cô con gái Huế rất trẻ đẹp đang ngồi kề tâm sự rả rích với ông chồng chà và rất đen xấu

Tác giả: Lê Đức Mậu (Kỳ Nam hữu Tự)
Thơ:
Chi rứa ông tơ khéo cột người
Trăm năm có phải chuyện làm chơi
Chà và ngồi trước mình đen xám
Son phấn kề bên sắc rói tươi
Phận ép duyên nài chi nợ chịu
Tiền trăm bạc chục đó mà thôi
Đi qua ta thấy ta thêm ngán
Con cháu rồng tiên đến thế thời
-----------
Ca:
Kim chi nhân duy tiền nhi dĩ
Lắm tiền tiêu các chị nghĩ là hơn
Quản chi chi má phấn môi son
Cho Ấn Độ chà và hun hít thảy
Hồng nhan đã lắm người như dại
Tây đen kia thấy gái thì mê
Chớ quả mai ba bảy đã chi hề,
Chi sớm đã đưa thân về với họ
Ngồi ngoảnh lại đó đây đây đó
Sắc chàm đen càng ngó ngó càng say
Có tiền ai cũng như ai

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013

Bài văn tế bố vợ nhân ngày giỗ đầu năm 1948

Tác giả: Lê Đức Mậu (tự là Kỳ Nam)
Việt Nam dân chủ cộng hòa năm thứ tư
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hôm nay là ngày 7 tháng 2 năm Mậu Tý nhân ngày lễ tiểu trường của thân phụ Đinh quý thị, tự hiệu Kính Chi, hiệu biệt Tùng mai tiên sinh, con trai, con gái, dâu rể và cháu vâng lịnh mẹ Trần thị, kính cẩn dâng chút lễ mọn tới trước linh tọa, khóc và than rằng:
Than ôi! kiếp phù sinh một giấc, có không, không có, vẫn biết câu "thất thập lai hy"; lòng hiếu thảo ba xuân, khuya sớm, sớm khuya nghĩ đến chữ "chung thân nhi mộ".
Nhớ cha xưa:
Nếp đất thông minh,
Tư trời dĩnh ngộ,
Khoa bảng nếp nhà,
Thi thư dòng cũ,
Dạo sân châu Khổng đã từng phen nổi tiếng văn chương. Kết bạn kỳ hiên cũng lắm lúc lừng danh tế độ. Thong thả tháng ngày Nghiêu Thuấn, khi trà sen, khi rượu cúc, giữa nhi tôn cam bỉnh nức mùi thơm. Thảnh thơi trăng gió tùng mai, khi thuốc thánh, khi thơ thần cùng bá thị huân trì đua nhịp gõ. Những tưởng trời còn để có, dằng dặc trăm năm cõi thế, nào cháu, nào con, nào dâu, nào rể; khi đắc ý hơi men khói thuốc, trước sân lai đôi mái hạc song song.
Nào ngờ đất lở xui nên, mơ màng một giấc về tiên, để sầu, để não, để tiếc để thương, khéo vô tình bãi bể nương dâu, trên núi Hộ chín khúc tằm vò võ.
Nơi khách địa hai anh  lo việc nước, không gặp cha để nghe lời dặn, dạ những bồi hồi; chốn khuê phòng hai chị ẵm con thơ đã xa chồng lại gặp tang cha lòng thêm sầu khổ.
Cháu trẻ tuổi đầu xanh lơ láo, nửa khôn nửa dại, gánh gia đình khó nỗi lo toan. Mẹ thân già chiếc bóng chiều hôm. khi tẻ khi vui niềm tâm sự cùng ai giải tỏ.
Ơn thái nhạc chưa mảy may đền báo, cám cảnh âm dương cách biệt, lúc lâm đình tấc dạ khôn nguôi; cảnh thung đường khuya sớm băn khoăn, đau lòng phụ tử sinh li, khi quy ngấn lệ sầu tuôn nhỏ.
Cha chẳng rốn một vài năm nữa, chờ lúc thái bình yên lặng, dưới chăn gối sum vầy rả rích anh trước em sau
Cha không đợi ít lâu gì, đến khi độc lập hoàn toàn, giữa nước nhà reo hát mừng vui sao vàng cờ đỏ. Cha nỡ vội làng mây xa lánh, gót tiêu dao trên nước Nhược non Bồng. Cha nỡ đành cửa Phật vui chơi; tai phảng phất giữa cá kình chim mọ.
Ôi than ôi! Tưởng chữ cù lao! nhớ ơn báo hộ, xiết tả tâm tình, biết bao phận số! Muôn thuở trông theo làn cỏ ấy. Trời ở đâu, đất ở đâu, non cao bể rộng hỏi là đâu? Năm canh  ôn lại dấu người thân, rượu vẫn đó, trà vấn đó, nét mực hồn thơ còn vẫn đó!
Ôi thương ôi!


Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Gặp bạn Sơn

Hôm nay, tôi gặp bạn Sơn
Bạn, mình chẳng biết mệt hơn ai nào
Hôm qua uống rượu quá vào
Tuy vui nhưng phải xin chào từ nay
Chú thích: Đây là cảm tưởng sau khi buổi sáng gặp bạn Sơn ngay sau tối hôm đi uống rượu mừng thầy Hậu được danh hiệu Nhà giáo giỏi cấp Bộ Quốc Phòng

Viếng thi sĩ Tạn Đà

Tác giả: Lê Đức Mậu (Tự là Kỳ Nam)
Hồn xưa thi sĩ biết gần xa?
Nhớ đến thơ xưa nhớ Tạn Đà
Non nước vẽ vời tranh đượm nét
Gió giăng đề vịnh bút thêm hoa
Hạnh Thôn còn đó nhiều cô trẻ
Lạc Xã bằng nay hiếm bạn già
Dưới suối vàng kia không bó buộc
Tùng Tuy Đỗ Lý sức ngâm nga
Chú thích: thi sĩ Tản Đà ông tôi gọi là Tạn Đà là tiếng địa phương. Còn Hạnh Thôn và Lạc Xã nhờ bạn Sơn giải nghĩa giùm

Thơ gửi vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn trông nom mẹ già

Tác giả: Lê Đức Mậu
Thơ tả hết nỗi lòng yêu dấu
Gửi về thăm tần tảo bạn hiền
Khắc giời đăng đẳng như niên
Nhớ ai ai nhớ ưu phiền đòi nao
Đường xa cách ngô lào sá ngại
Tựa buồng không thiếp hãy yên tâm
Tơ kia đã vướng thân tằm
Trăm năm bia tạc đồng tâm lời nguyền
Xin thiếp giữ chân truyền một tiết
Thờ mẹ già tính nết đoan trang
Làm ăn khuya sớm trăm đằng
Phải lo học tập chớ màng vui chơi
Đừng học thói ngược xuôi ngày tháng
Để thế gian kẻ báng người chê
Trò chơi đánh chác chớ mê
Ra vào cẩn thận đi về phải chăng
Tôi đành đã bồng tang gánh nặng
Quản chi thân mưa nắng dãi dầu
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Tâm can ai kẻ đỡ hầu cho ta
Vậy thiếp phải lo xa nghĩ tới
Thờ mẹ già mối nối thay anh
Ở sao cho đúng chút tình
Mẹ con vui vẻ cho mình khỏi lo
Công hầu mẹ xem to bằng núi
Khách chân mây xiết nỗi mừng vui
Yên tâm làm việc cho người
Họa may sau có một ngày vẻ vang
Tình đây đó đã tường hay chẳng
Dẫu gian lao cũng gắng lo toan
Chớ nghe miệng thế nói bàn
Mà hư việc lại phàn nàn về sau
Tình chăn gối trước sau khuyên giải
Có yêu nhau xin hãy như lời
Thơ phong dạ những bồi hồi
Biết rồi sau có như rày cho không?
Thơ nhắn gửi lệ dòng chan chứa
Cảnh gia hương càng (ngẫm)  càng đau
Đoái xem non nước một màu
Mang mông cao rộng biết bao đường dài
Đường dài dặc khôn bài lui tới
Biết cùng ai nói nói cười cười
Vì ai xa cách đôi nơi
Để lòng tôi những đứng ngồi trông mong
Trông nhớ (nguời) buồng không ngồi dựa
Trông nhớ người đứng (cửa) dòm ra
Trêu người chi lắm giăng già
Để cho ai những thiết tha trong lòng
Ví chẳng mắc vào vòng danh lợi
Thì thân này chi mắc long đong
Ai ơi mấy kẻ yêu chồng
Ghé vai chung gánh cho chồng một phen
Đừng chán não ưu phiền  thêm mệt
Cất cơn buồn tính kế sinh nhai
Ngày xuân xuân hãy còn dài
Chớ than phận liệu mà gầy tóc sương
Đây (tính) cũng tìm phương gần gửi
Cảnh gia đình sớm tối cùng nhau
Vườn xuân mặc sức ra vào
Cho (ta) những lúc khát khao vì tình
Mình ơi có (thấu) chăng mình


(Chú thích Những chỗ viết trong dấu ngoặc đơn nguyên bản là chữ rất khó đọc hoặc viết sát lề giấy bị mất chữ đọc không được tôi tự đoán lấy)

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Bất ngờ gặp nữ sĩ vô danh đùa bỡn

Tác giả: Lê Đức Mậu
Dẫn: Trước cách mạng tháng 8, không nhớ năm tháng nào, khi ở Huế, anh em chúng tôi trong quán trọ học tập và bàn chuyện làm thơ, thì bỗng có nữ sĩ vào hỏi sao các ông đồ này ít làm thơ? chúng tôi đáp vì thơ phải có rượu mới hứng thú mà chúng tôi nghèo không có tiền mua rượu nên không làm được thơ. Cô ta liền mở ví đưa ra 3 đồng biếu chúng tôi và bảo đi mua rượu về uống, em ngồi chờ đây để nghe thơ, chúng tôi hỏi quê quán, tên tuổi thì nhất thiết không nói, chỉ nói khi lúc được học ít chữ nho nên ham nghe thơ. Việc cũng lạ thật nên nhớ ghi vào đây
Thơ:
Làng văn không rượu nhác làm thơ
Tình cảnh làng văn đã ngán chưa?
Gái sẵn tiền lưng đưa biếu khách
Bảo tôi mua rượu gái ngồi chờ
---------
Gái chờ nào có ý gì đâu
Muốn thử tài văn thấp với cao
Tớ vẫn vui lòng không chút ngại
Tần- Hoài tớ bảo rượu mua mau
----------
Đảo khắp Tần - Hoài suốt một vòng
Làng văn mấy (thuở) mãi ngồi trông
Mang về rượu lít hơi còn nóng
Mời gái ngồi chung nhấp chén đồng
---------
Nở nụ cười hoa bảo các ông
Rằng thơ có rượu mạnh tuôn dòng
Em đây chỉ muốn nghe thơ Lý
Không biết thơ Đường có nữa không?
------------
Ghê gớm trần gian lắm lạ lùng
Gái đâu tới bỡn khách anh hùng
Khải rằng Thị Điểm Xuân Hương mới
Xướng họa cùng vui chớ ngại ngùng
---------------
Nếu phải rằng tiên cứ nói đi
Tôi mời ông Lý tới ngâm thi
Ở đây đồ đệ Trường Canh cả
Thơ Lý thơ Đường nỏ thiếu chi
--------------
Bài cô trả lời
Theo đòi nhiều ít bút và nghiên
Mặt thợ rìu đâu dám múa men
Nợ rượu đền thơ lòng quí quá
Vài hồi chuông đánh tiếng lừng (không)
(Chú thích: chữ trong ngoặc đơn tôi không đọc được nên để tạm thế )

Tặng hai thanh niên nam nữ thành hôn

Tác giả: Lê Đức Mậu
Bài ca:
Xuân sắp tới ánh tưng bừng rực rỡ
Chị cùng anh hăm hở kết nhân duyên
Bạn trăm năm kén chọn đã vừa nguyền
Trai tráng sĩ gái thuyền quyên sắc sảo
Gái nội trợ gia đình cho phải đạo
Mà tiền phương chiến đấu phải hăng lên
Gánh non sông đoàn thể đặt lên trên
Trai với gái nặng tấm nguyền giết giặc
Giành cho được hòa bình và thống nhất
Độc lập rồi reo hát khúc hoài ca
Chị em ta dầu phận gái đàn bà,
Cũng mạnh mặt đi ra cùng các giới
Đào hây hẩy gió đông đưa phơi phới
Hạnh phúc chào hai bạn mới thành hôn
Đá vàng kết nghĩa keo sơn
Chú thích: Tôi không rõ hoàn cảnh của bài ca này nhưng đoán rằng đây là bài ca làm tặng đám cưới đôi trai gái  do Hội phụ nữ tổ chức thời chiến tranh vì cụ đề chữ Phụ nữ: bên cạnh tên bài ca

Bị cháy nhà

Tác giả: Lê Đức Mậu
Vừa bước chân đi đã cháy nhà
Hại nhau chi lắm thế giời già?
Lửa hồng thiêu hết cơ đồ cũ
Tro xám vùi tan sách vở ta
Lý Bạch Tô Công người đã khuất
Bồng sơn Nhược thủy cảnh còn xa
Biết ai cùng bạn tiêu sầu tí
Chỉ có ngâm đề giăng với hoa
Bị chú: Vì giăng sáng soi rõ mà dễ an ủi mình, hoa thi tươi cười hớn hở làm cho người vui 
Chú thích: Tô Công là Tô Đông Pha. Tô Đông Pha và Lý Bạch là 2 nhà thơ lớn của Trung Quốc. Vụ cháy này tiêu hủy hết mấy tập thơ văn của ông. Không còn nhà Ông ra Sơn Tây sống cùng con trai, thời gian rỗi ngồi nhớ và chép lại thơ đã cháy mất. 

Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

Chơi vịnh Hồ Tây Hà Nội

Tác giả: Lê Đức Mậu
Quanh Hồ Tây gió xuân đưa nhẹ
Mai trắng thơm đẹp đẽ vô ngần
Có Mai tô đượm tinh thần
Có thơ ngâm vịnh mười phân vẹn mười
Chốn Hồ Ngưu đến nay còn vết
Người anh hùng Thường Kiệt còn đây
Thăng Long văn hiến đất này
Hồ Tây so với Bồng Lai kém gì
Thuyền cập bến chèo đi hướng gió
Rượu Đông Pha đầy hũ thơm tho
Hằng Nga trông xuống thèm thò
Muốn cùng đối tửu hẹn hò khúc giang
Muốn lảy gõ văn chương làng cũ
Hồn tiêu tan đất phủ còn ai
Trên thuyền chỉ có mình Mai
Vui ngâm với tớ một vài câu thơ
Trẻ cầm lái ngây thơ lặng lẽ
Muốn cùng ông thỏ thẻ đôi lời
Nhưng rồi lặng tiếng im hơi
Nghe thơ gõ nhịp chằng rời thuyền tô
Nhìn quang cảnh ngoài hồ bát ngát
Gió chiều người thổi mát hiu hiu
Làn giăng đáy nước dập dìu
Nhô lên hụp xuống hướng theo mạn thuyền
Khi đắc ý ngồi yên một lúc
Nhớ văn xưa những khúc thơ hay
Phú Hồ Tây có hai bài
Đương thời vẫn được số người ngợi khen
Nhưng văn viết bỏ quên thực tế
Chuyện ngoài hồ lại kể vu vơ
Lại thêm cổ điển thể thơ
Dùng không đúng chỗ gieo ngờ về sau
Các ông chỉ ganh nhau bút chiến
Ông cống kia lại đến ông đồ
Tả chân phú nói mơ hồ
Kẻ chê vu khoát người cho sai lầm
Thương chim nhỏ Sâm Cầm một lũ
Liệng quanh hồ tìm chỗ kiếm ăn
Ngán thay bẫy đã chăng càn
Thừa cơ úp hết mấy đàn chim con
Chim đã nộp dân còn khốn khổ
Huyện đòi rồi tính bộ kê khai
Nào cùm nào giọa nào roi
Dân tình khốn khổ kêu nài ai thương
Nhớ sử nước lại càng chua xót
Thôi quay thuyền giở gót đêm khuya
Lên bờ ngán cảnh phân chia
Trên trăng dưới nước đường kia hoa chào
Mê cảnh đẹp khi nào lại gặp
Chúng tôi còn thắc mắc hồi lâu
Nối thêm thơ phú vài câu
Gửi tình đằm thắm in sâu với hồ
Nguồn vô tận của khi trăng gió
Hồ cho ta thuốc bổ an thần
Ba mươi năm lẻ phong trần
Giờ đây vui trẻ ngỡ thân chưa già
Giờ gặp lại thiết tha yêu nhớ
Muốn ôm hôn mà sợ người nghi
Ở trong nào có tình chi
Ngoài bề cười nói có khi người nhầm
Sao chẳng biết khúc cầm chàng Bá
Đã nghi sâu vào dạ Chung Kỳ
Hồ Tây hạt ngọc lưu ly
Trăng soi, gió thoảng còn gì vui hơn
Thôi hãy gác những cơn ngờ vực
Xiết tay nhau ấm rực tình xưa
Phải đâu tằm vướng vì tơ
Say hoa hồn bướm ngẩn ngơ bàng hoàng
Ta cũng nói với giăng và nước
Rằng chúng ta là bậc thanh tao
Vần thơ lời nói ngọt ngào
Phải đâu sớm mận tối đào như ai
Còn về còn nhớ Hồ Tây
(Chú thích: Đây là bài Chơi vịnh Hồ Tây của cụ Lê Đức Mậu là ông nội tôi, vì nguyên bản chữ khó đọc nên có thể có sai sót khi chép lại)

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013

Thơ để lại sau khi chết để con cháu đọc nghe khi khấn giỗ (Tuyệt bút)

Tác giả: Lê Đức Mậu
Chết vẫn là vinh tớ chẳng phiền
Xác vùi đất tục kiếp lên tiên
Tô công Lý Bạch người xưa gặp
Thơ phú nghìn chương nối tiếp liền
(Chú thích:  Tô công là Tô Đông Pha nhà thơ lớn đời Tống, Lý Bạch là một trong bốn nhà thơ lớn đời Đường của Trung Quốc)

Lại về quê cũ

Tác giả: Lê Đức Mậu
Từ giã non tiên trở lại nhà
Sơn Bằng nghìn thủa đất ông cha
Dù buồn dù giận dù sao nữa
Cáo biết quay đầu nữa chúng ta
(Chú thích: Đây là bài thơ của ông nội tôi làm khi rời Sơn Tây về quê hương, non tiên ở đây là núi Ba Vì nổi tiếng linh thiêng )

Câu đối vịnh cuộc đời ra ở Sơn Tây (Hà Nội)



Non Kim sông Phố quê cũ ngó buồn tanh, nhà cháy vườn dời đất cát ngổn ngang gìm đất tổ
Núi Tạn sông Đà giời tây trông đẹp quá, trăng thanh gió mát lòng tiên rộng rãi đón làng thơ
(Chú thích:  Câu đối của ông nội tôi làm khi rời quê hương ra sống ở Sơn Tây. Non Kim là rú Kim, sông Phố là sông Ngàn Phố ở Sơn Bằng, Hương Sơn, Hà Tĩnh)

Tự kiểm điểm

Tác giả: Lê Đức Mậu
Học đủ năm xe còn sợ thiếu
Tài dư tám đấu dám khoe thừa
Nhà văn mong được nhiều phê phán
Ưu mới đề cao, khuyết mới chừa

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Một số tiết mục thi Hội phụ nữ cơ sở giỏi của khoa KHTN năm 2013

https://youtu.be/KCc4dgETo2M
                                                      Màn chào hỏi


Tiết mục năng khiếu do Lê Nhất và Hương Thảo biểu diễn
Tiết mục Kịch do Cao Hà, Thu Phương và Hương Thảo diễn xuất

Phát biểu khai mạc hội thao cơ sở năm 2013 của Khoa Khoa học Tự nhiên

Kính thưa: Các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy khoa KHTN
Thưa các đồng chí cán bộ, giảng viên

    Trong không khí tưng bừng phấn khởi kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), hôm nay, ngày 06 tháng 11 năm 2013, khoa Khoa học Tự nhiên trang trọng tổ chức Hội thao cấp cơ sở năm 2013 nhằm mục đích thúc đẩy phong trào rèn luyện thể thao trong cán bộ, giảng viên, CNV, CS đồng thời là cơ sở để tuyển chọn, bồi dưỡng đội tuyển thể thao của Khoa tham gia thi đấu  Hội thao cấp Nhà trường năm 2013.
   
Thay mặt cho lãnh đạo chỉ huy khoa, tôi nhiệt liệt chào mừng các  các đ/c cán bộ, giảng viên, các vận động viên tới thi đấu, cổ vũ, động viên thi đấu. Kính chúc các đồng chí cùng gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc!

Kính thưa các đồng chí
Sức khỏe và trí tuệ là tài sản lớn của mỗi con người, có sức khỏe mới có thành công, mới đóng góp được nhiều cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Nhà trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “ luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Do vậy, mỗi chúng ta đều phải tích cực luyện tập thể dục thể thao, qua đó phong trào thể dục thể thao, chất lượng đội tuyển thể thao của chúng ta sẽ ngày càng phát triển.


Để đợt hội thao cấp cơ sở khoa KHTN đạt được kết quả cao. Thay mặt lãnh đạo, chỉ huy khoa, tôi yêu cầu:

1/ Các vận động viên thi đấu với tinh thần đoàn kết, nhiệt tình, trung thực, cao thượng phấn đấu đạt thành tích cao nhất. Cống hiến cho CB, GV toàn khoa những pha bóng đẹp, những đường cầu xuất sắc.

2/ Các đồng chí làm nhiệm vụ trọng tài nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm việc công minh, khách quan, trung thực và đúng luật để góp phần vào sự thành công của Hội thao.

3/ Các đồng chí cổ động viên hãy cổ vũ nhiệt tình, vô tư, động viên các đồng chí thi đấu với tinh thần cao nhất.

4/ Sau Hội thao cơ sở, các đồng chí được phân công bồi dưỡng đội tuyển xây dựng kế hoạch luyện tập, tích cực bồi dưỡng vận động viên để chúng ta có thành tích tốt trong đợt hội thao cấp Nhà trường.

Với tinh thần đó thay mặt lãnh đạo, chỉ huy khoa tôi tuyên bố khai mạc hội thao cấp cơ sở khoa KHTN, năm 2013 !

Xin chúc các các vận động viên và toàn thể cán bộ, giảng viên mạnh khoẻ, hạnh phúc! Chúc Hội thao cơ sở khoa KHTN,  thành công tốt đẹp.

Xin chân trọng cảm ơn!

THỐNG NHẤT QUI CÁCH, NỘI DUNG THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ, BÀI GIẢNG VIẾT TAY CÁC MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN


    I. MỤC ĐÍCH,YÊU CẦU
    - Tạo tính thống nhất  về qui cách, nội dung đưa lên các slide trình chiếu đảm bảo tính khoa học và hiệu quả sử dụng của bài giảng điện tử các môn khoa học tự nhiên.
    - Tạo thuận tiện trong biên soạn, thông qua bài giảng điện tử.
    - Đảm bảo tính khoa học, thống nhất đồng thời có tính mở để giảng viên phát huy tính sáng tạo trong thiết kế bài giảng điện tử.
    - Phù hợp với phương pháp dạy học phát huy tính tích cực nhận thức của người học.
     - Bài giảng điện tử phải sáng sủa, có lôgic chặt chẽ, hình thức các slide phải thống nhất; màu nền và màu chữ phải có độ tương phản cao.
    - Bài giảng viết tay phải theo đúng qui cách, nội dung qui định của Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu.
    II. CÁC QUI ĐỊNH CỤ THỂ VỀ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ
    1. font, cỡ chữ, màu sắc chữ và nền:
    - Toàn bộ bài giảng trình chiếu đều sử dụng các font chữ không chân (Ví dụ: Arial, Tomaho …).
    - Lấy cỡ chữ font Arial làm cơ sở, các font khác chọn cỡ chữ tương đương.
    - Màu nền và chữ phải hòa hợp có độ tương phản cao; nên dùng nền trắng chữ đen, nền xanh dương (Blue) chữ trắng; nền và chữ tránh dùng các cặp phối hợp của các màu đen,đỏ, xanh.
    2. Trang bìa (có mẫu kèm theo)
    Trang bìa qui định thống nhất toàn khoa như sau: sử dụng nền đơn giản không chèn ảnh nền.
    - Phía trên, ở giữa có tiêu đề
    TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 1 (font chữ in hoa cỡ 24, không đậm)
    KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN ( font chữ in hoa cỡ 24, đậm)
    - Phần trung tâm của bìa ghi (theo thứ tự từ trên xuống dưới)
    + Bài
    + Tên bài
    font Bài và tên bài chữ in hoa, đậm, cỡ từ 38 đến 48 tùy theo độ dài của tên bài.
    + Giảng viên: ghi cấp bậc, học hàm, học vị, họ và tên người biên soạn (font cỡ 24 không nghiêng). Nếu là tiến sĩ viết là TS, thạc sĩ viết là Th.S, cử nhân thì không ghi. Ở mục cấp bậc không ghi theo kí hiệu, nếu là CCQP  thì ghi là CCQP, nếu là QNCN thì ghi là QNCN.
    + Hà Nội, ngày, tháng, năm biên soạn: font cỡ 24, chữ nghiêng.
    2. Trang giới thiệu ý định giảng bài (không ghi tiêu đề)
    Là trang tiếp theo trang bìa, ghi các mục sau:
    - MỤC ĐÍCH
    - YÊU CẦU
    - NỘI DUNG
    - THỜI GIAN   
    - PHƯƠNG PHÁP
    - TÀI LIỆU
    Các mục trên sử dụng font chữ in hoa cỡ cỡ 28-32, đậm, cùng màu sắc. Phần nội dung chỉ ghi các nội dung chính trong bài giảng theo thứ tự nhưng không đánh chỉ số thứ tự, hàng dưới ghi  trọng tâm: in nghiêng, khác màu và ghi nội dung trọng tâm là gì. Nội dung trọng tâm có thể thể hiện bằng cách đổi màu của mục được xác định là nội dung trọng tâm.
    Mục thời gian ghi số tiết của bài giảng; các mục khác không ghi nội dung lên slide.
    Nếu giảng dạy cặp tiết sau của bài và dạy ở một buổi khác thì có thêm một trang bìa trước cặp tiết đó gọi là Trang bìa phụ.
    3. Trang MỞ ĐẦU
    Ghi chữ MỞ ĐẦU in đậm, chữ thẳng, cỡ 48 , ở chính giữa slide. Không ghi nội dung của phần mở đầu, giảng viên nói nội dung phần mở đầu như bài giảng viết tay.
    4. Các trang thể hiện nội dung bài giảng (gồm có 3 phần)
    a) Phần tiêu đề (Title)
    Phần này để thể hiện các tiêu mục của bài giảng, được ngăn cách với phần nội dung bởi đường kẻ ngang hoặc được phân biệt với phần nội dung bằng một băng ngang khác màu nền với phần nội dung; kích thước, màu sắc phải hòa hợp với phần nội dung và phần tiêu đề dưới.
    Tiêu đề được chia thành nhiều cấp ( thông thường là 3 cấp)
    - Cấp thứ nhất: Ghi tiêu đề lớn (Ví dụ: I. Chuỗi số), chữ in hoa, cỡ 28-32, màu sắc hòa hợp, tương phản cao với nền. 
    - Cấp thứ hai: Ghi tiêu đề cấp tiếp theo (ví dụ: 1. Khái niệm chung), chữ in thường, cỡ 28-32, màu sắc giống với tiêu đề cấp thứ nhất.
    - Cấp thứ ba: Ghi nội dung tiêu đề, chữ nghiêng, cỡ 28-32 , màu sắc phù hợp với nền
    Chú ý: Các tiêu mục phải được bố trí thống nhất (đẳng cấp, cùng màu, cùng font, cùng cỡ). Tiêu đề cấp một và cấp hai phải để trên phần nền của tiêu đề trên, thẳng hàng dọc. Riêng tiêu đề cấp 3 để trong phần nội dung bài giảng để phần tiêu đề bài giảng có tỷ lệ kích thước phù hợp. Tất cả các slide về nội dung bài giảng phần nền tiêu đề đều phải thể hiện ở 2 cấp.
    b) Phần dưới của slide (Footer)
    Phần này để thể hiện thông tin như tên bài, người biên soạn …. có kích thước cố định và phù hợp, được ngăn cách với phần nội dung bằng đường kẻ ngang hoặc màu nền khác với phần nội dung, chia làm 2 hoặc 3 phần:
    Bên phải ghi “giảng viên: cấp bậc, học hàm, học vị, họ và tên giảng viên” chữ thường, cỡ 14 đến 18
    Bên trái ghi tên bài chữ in hoa, cỡ 14- 18; nếu tên bài quá dài thì cho phép sử dụng viết tắt một số từ cho phù hợp với khuôn khổ footer.
    Ở giữa là phần đánh số slide tự động hoặc ghi ngày tháng năm biên soạn chữ thường cỡ 14-18
    Nếu chỉ chia làm 2 phần thì bỏ mục ở giữa.
    Màu sắc của chữ trong mục này phải khác màu chữ trong phần nội dung nếu phần Footer chỉ được ngăn cách bằng một đường kẻ.
    c) Phần nội dung (Text)
    Đây là phần có kích thước lớn nhất dùng để trình bày nội dung bài giảng, thường dùng nền trắng để tạo độ tương phản cao với chữ. Cỡ chữ của phần này theo mặc định.
    Nội dung các slide phải ngắn gọn, cô đọng được các điều chủ yếu, không dùng nhiều chữ trên một slide. Chủ yếu có các nội dung sau:
    - Các khái niệm, định lí, định luật, hệ quả...
    - Các vấn để giảng viên nêu ra. Kết luận của các vấn đề.
    - Nội dung cốt yếu, kết quả cuối cùng của từng mục bài giảng.
    - Các hình ảnh minh họa, hình vẽ, biểu đồ, sơ đồ, các mulimedia.
    - Các yêu cầu cho bài học sau, bài tập về nhà.
    Chú ý: Những phần học viên phải ghi chép nên có biểu tượng nhỏ (chẳng hạn bàn tay cầm cây bút) ở góc slide.
    5. Trang KẾT LUẬN
    Ghi chữ KẾT LUẬN in hoa đậm, cỡ như Trang MỞ ĐẦU , ở chính giữa slide. Không ghi nội dung của phần kết luận, giảng viên nói nội dung phần kết luận như bài giảng viết tay.
    Vị trí của trang KẾT LUẬN ở phần cuối bài giảng.
    6. Một số trang khác
    a) Trang BÌA PHỤ
    Nội dung trang bìa phụ như trang BÌA, chỉ khác là dưới tên bài có dòng tiếp theo nằm trong ngoặc đơn, chữ thường, nghiêng, cỡ 14-16.
    b) Trang KIỂM TRA BÀI CŨ
    Nếu việc kiểm tra bài cũ cần thiết phải chiếu nội dung lên slide thì có trang này. Chữ kiểm tra bài cũ in hoa, ở giữa, màu sắc như chữ MỞ ĐẦU, cỡ 42-44 phần bên dưới là nội dung kiểm tra bài cũ. Vị trí slide này ở đầu bài giảng trước trang bìa và trước trang BÌA PHỤ (nếu có).
    c) Trang BÀI TẬP VỀ NHÀ
    Nếu việc ra bài tập về nhà cần thiết phải chiếu nội dung lên slide thì có trang này. Chữ BÀI TẬP VỀ NHÀ in hoa, ở giữa, màu sắc và cỡ bằng như KIỂM TRA BÀI CŨ phần bên dưới là nội dung bài tập về nhà. Vị trí slide này ở cuối bài giảng sau trang KẾT LUẬN.
    d) Trang CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
    Giáo viên cần định hướng các câu hỏi nghiên cứu ở bài học tiếp theo. Chữ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU in hoa, ở giữa, màu sắc và cỡ bằng như KIỂM TRA BÀI CŨ phần bên dưới là nội dung bài tập về nhà. Vị trí slide này ở cuối bài giảng sau trang BÀI TẬP VỀ NHÀ.
    7. Sử dụng hiệu ứng, âm thanh, đồ họa, phim ảnh, hình vẽ, .....
    - Không nên dùng hiệu ứng phức tạp (chỉ sử dụng khi thật cần thiết), hiệu ứng có tốc độ chậm, hạn chế tối đa âm thanh hiệu ứng. Các nội dung chú ý, nhấn mạnh có thể dùng hiệu ứng, âm thanh tùy ý để tạo sự sinh động.
    - Sử dụng tối đa hình vẽ, đồ họa, phim ảnh, ảnh động để minh họa, miêu tả trực quan để người học dễ hiểu, nhớ nhanh. Các khái niệm có tính trừu tượng càng phải nghiên cứu mô tả nó bằng hình ảnh.
    - Khuyến khích việc sử dụng mô phỏng, ứng dụng kỹ  thuật 3D.
    - Hình ảnh minh họa phải có chất lượng tốt, hình ảnh trung thực, chân phương,  chuẩn tắc.
    8. Kết hợp trình chiếu và phấn bảng
    Phấn bảng phải kết hợp hài hòa với bài giảng điện tử. Ngoài những nội dung sẽ chiếu lên slide giảng viên phải sử dụng phấn bảng. Quá trình làm việc với học viên khi chưa ra kết quả cuối thì cần sử dụng phấn bảng. Tránh trùng lặp nội dung viết và chiếu.

    III. CÁC QUI ĐỊNH VỀ BÀI GIẢNG VIẾT TAY               
    Bài giảng viết tay phải theo đúng qui cách, nội dung qui định của Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu. Ngoài ra cần thực hiện đúng một số qui định như sau:
    - Trang bìa
    + Tất cả các nội dung ở trang bìa bài giảng đều phải ghi đầy đủ trừ mục “Số...”.
    + Mục Bài (Đề mục:) Ghi tên bài theo chương trình dạy. Trường hợp quyển soạn bài giảng dùng cho nhiều bài thì trang bìa (bìa xanh) ghi tên bài thứ nhất, các bài khác tạo trang phê duyệt và ghi như trang đầu trừ mục Bài (Đề mục: ) ghi tên bài thứ hai ….
    + Mục chỉ có dòng là các dấu chấm ghi cấp bậc, học vị (từ thạc sĩ trở lên), họ và  tên của người biên soạn.
    - Viết bài giảng không viết một mặt giấy hay cách dòng, phải viết đầy đủ cả hai mặt giấy.
    - Phần MỞ ĐẦU: Nêu vị trí, ý nghĩa, phạm vi bài giảng, căn cứ biên soạn. Phạm vi bài giảng ở đây hiểu là khuôn khổ giới hạn của nội dung bài giảng (không phải liệt kê các nội dung bài giảng).
    Ví dụ (Phạm vi Bài giảng Chuỗi): Bài giảng giới hạn ở các kiến thức cơ bản  về chuỗi thực, đưa ra khái niệm chung về chuỗi số, chuỗi hàm; các phương pháp tìm sự hội tụ, phân kỳ của chuỗi số, chuỗi hàm mà trọng tâm là chuỗi số dương và chuỗi lũy thừa.
    - Giới thiệu môn học: Bài giảng đầu tiên của môn học phải có phần giới thiệu môn học, thời gian từ 5 đến 7 phút. Nội dung bao gồm những vấn đề sau đây:
    + Ý nghĩa môn học nói chung và ý nghĩa môn học trong chương trình đào tạo của Nhà trường nói riêng. Khái quát ngắn gọn lịch sử phát triển của môn học.
    + Nội dung, chương trình môn học, hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, cách thức đánh giá thường xuyên, các hình thức động viên, khuyến khích.
    + Phương pháp giảng dạy của giảng viên, phương pháp học của học viên.
    - Phần Kết luận:
    Hệ thống, tóm tắt nội dung bài giảng, nhấn mạnh các nội dung cần tập trung nghiên cứu kỹ, yêu cầu nghiên cứu trước cho bài học tiếp theo, ra bài tập về nhà cho học viên.
                           

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN HỌC Ở KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN

I. YÊU CẦU CHUNG:
Đổi mới phương pháp dạy học lần này phải tạo ra tính đột phá về dạy học tích cực thể hiện chỗ: học viên phải tích cực học tập hơn từ việc đọc trước tài liệu đến học tập trên lớp. Giảng viên không truyền đạt một chiều chủ yếu hướng dẫn học viên tự giải quyết vấn đề do giảng viên đặt ra.
II. DẠY HỌC ĐỐI TƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
1. Quan điểm:
- Quan điểm chung:
Sử dụng chủ yếu phương pháp dạy học nêu vấn đề, kết hợp với các phương pháp khác như thuyết trình tích cực, giao đọc tài liệu kiểm tra sau (có thể trong giờ bài tập hoặc buổi học sau).
- Đối với bộ môn tin học dạy học thực hành sau khi nêu vấn đề, chỉ thao tác thì dành một khoảng thời gian ngắn để cho học viên thực hành ngay các kỹ năng bản (có thể một yêu cầu thực hành một vài kỹ năng bản vừa giới thiệu) để học viên ghi nhớ. Việc rèn luyện tổng hợp nâng cao giải quyết trong giờ bài tập.
- Đối với bộ môn toán, giảng dạy toán cao cấp nội dung rất nhiều, tính logic rất cao trong khi đó thời gian lại ít. Cần tập trung vào nội dung trọng tâm kiến thức bản, dụ điển hình. Nội dung mở rộng thể cho học viên đọc tài liệu.
2. Cách dạy
a) Lựa chọn vấn đề: Mỗi bài chọn 1 đến 2 vấn đề trọng tâm của bài để dạy học theo phương pháp nêu vấn đề. Vấn đề phải trọng tâm, bao gồm các kiến thức cốt yếu của bài học khi thực hiện tốt sẽ bản đạt mục đích, yêu cầu của bài học. Vấn đề phải tính hoàn chỉnh tính khái quát, không phải chi tiết.
b) Cách giảng dạy nêu vấn đề:
+ Giảng viên phải nêu được vấn đề ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để học viên nắm được, hiểu được.
+ Hướng dẫn học viên giải quyết vấn đề: Sử dụng các câu hỏi, đàm thoại dẫn dắt học viên tìm ra con đường để giải quyết vấn đề. Giảng viên phải kết luận được các bước cần phải làm để giải quyết vấn đề đó, sau đó hướng dẫn học viên làm theo từng bước. Trong quá trình này thể sử dụng hình thức thảo luận nhóm giảng viên điều khiển lớp học thảo luận tìm ra kết quả. Cuối cùng, giảng viên kết luận chiếu lên slide kết luận vấn đề (đảm bảo ngắn gọn, cốt yếu).
- Một số vấn đề (thường thuyết, tính chất khái quát ) thể làm theo cách như sau:
Giảng viên nêu giải quyết một thí dụ đơn giản của vấn đề mình sắp giảng. Sau đó đặt các câu hỏi mở rộng ra yêu cầu học viên khái quát thành kết quả cần tìm. Kết luận cho thí dụ áp dụng.
- Đối với vấn đề lớn, giảng viên phải chia thành nhiều vấn đề nhỏ tính chất tuần tự kế thừa các bước, hướng dẫn học viên giải quyết từng bước một. thể cho thảo luận nhóm với mỗi bàn một nhóm, giao cho mỗi nhóm một bước (chú ý phải phù hợp với khả năng của từng nhóm, nghĩa nhóm khả năng tốt giao cho bước khó, nhóm nhận thức yếu hơn giao cho bước dễ làm hơn).
- Đối với các vấn đề cách giải quyết tương tự thì giảng viên chỉ làm kỹ một vấn đề, các vấn đề khác chỉ cần nói cách giải quyết tương tự vấn đề đã làm.
- Với bộ môn toán, cần chuẩn bị thật tốt hệ thống câu hỏi nêu vấn đề (cần làm cho học viên thấy đích đến của vấn đề) các câu hỏi để gợi ý dẫn dắt học viên giải quyết. Không lạm dụng hình thức thảo luận nhóm. Khai thác tối đa đồ, hình vẽ, phỏng.
III. VỚI ĐỐI TƯỢNG CỬ TUYỂN CÁC ĐỐI TƯỢNG CAO ĐẲNG
Nhóm đối tượng này phải sử dụng phương pháp một cách linh hoạt, đòi hỏi cao về nghệ thuật dạy của giảng viên. Sau đây một số chú ý:
+ Không nhận thức yếu không dạy tích cực, chỉ làm mẫu bắt chước.
+ Dùng dụ đơn giản, khái quát thành luận, thành qui trình rồi mới cho làm bài tập vận dụng.
+ Sử dụng thảo luận nhóm với cách chia vấn đề như nói trên, yêu cầu cả lớp phải làm việc
+ Học viên không nắm được cái kiến thức cũ, giảng viên thể cung cấp trực tiếp cái đó, không nên hệ thống lại toàn bộ không thời gian làm ngắt quãng bài giảng (có thể hệ thống lại trong giờ bài tập).
+ Tăng cường động viên, khuyến khích
+ Không tham kiến thức, không tham bài tập khó, tập trung làm tốt các năng bản, nội dung trọng tâm.
IV. BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ
Bài giảng điện tử không phải để thay cho phấn bảng. Bài giảng điện tử phải sáng sủa lôgic chặt chẽ, hình thức các slide phải thống nhất, các tiêu mục phải được bố trí thống nhất (đẳng cấp, cùng màu, cùng font, cùng cỡ). Không dùng nhiều hiệu ứng phức tạp, màu sắc không trang nhã, hạn chế tối đa âm thanh hiệu ứng, đảm bảo độ tương phản cao giữ màu nền màu chữ. Các nội dung chú ý, nhấn mạnh thể dùng tùy ý để tạo sự sinh động. Nội dung các slide phải ngắn gọn, đọng được các điều chủ yếu, không dùng nhiều chữ trên một slide.
Trên bài giảng điện tử chủ yếu để đưa các nội dung sau:
- Tên bài, các tiêu mục của bài giảng (dàn bài của bài giảng)
- Các vấn để giảng viên nêu ra. Kết luận của các vấn đề.
- Nội dung cốt yếu, kết quả cuối cùng của từng mục bài giảng.
- Các hình ảnh minh họa, hình vẽ, biểu đồ, đồ, các mulimedia.
- Các yêu cầu cho bài học sau, bài tập về nhà.
Chú ý: Những phần học viên phải ghi chép nên biểu tượng nhỏ (chẳng hạn bàn tay cầm cây bút) góc slide.
V. SỬ DỤNG PHẤN BẢNG
Phấn bảng phải kết hợp hài hòa với bài giảng điện tử. Ngoài những nội dung sẽ chiếu lên slide giảng viên phải sử dụng phấn bảng. Quá trình làm việc với học viên khi chưa ra kết quả cuối thì cần sử dụng phấn bảng. Tránh trùng lặp nội dung viết chiếu.
VI. SỬ MỘT SỐ MÂU THUẪN
1. Mâu thuẫn giữa nội dung nhiều thời gian giảng dạy ít
Lựa chọn vấn đề trọng tâm để làm kỹ, các vấn đề khác thể đi nhanh, nêu tinh thần cốt yếu hoặc giao học viên tự đọc tài liệu (phải nêu được tinh thần, kết quả, vấn đề tại sao kết quả học viên tìm hiểu trong tài liệu)
2. Mâu thuẫn giữa nội dung vấn đề lớn, khó nhận thức của học viên
Chia vấn đề thành nhiều vấn đề nhỏ vừa sức với học viên, các vấn đề vượt tầm tự học của học viên thì giảng viên kết luận.
3. Mâu thuẫn giữa học viên giải quyết vấn đề mất nhiều thời gian việc thực hiện đúng kế hoạch giảng bài.
Giảng viên phải căn cứ kế hoạch giảng bài để điều chỉnh, không được lạm dụng thời gian cho dạy học nêu vấn đề ảnh hưởng đến việc dạy các phần khác. Nếu gần hết thời gian, học viên đã gần đến kết quả thậm chí vẫn chưa làm được thì giảng viên kết luận ngay.
4. Mâu thuẫn giữa nhận thức không đồng đều của học viên mức độ phù hợp của vấn đề nêu ra với các học viên trong lớp.
Để kích thích cả lớp làm việc, giảng viên phải biết chia vấn đề thành nhiều mức, giao cho các nhóm làm việc cho phù hợp với từng nhóm nhận thức. Phải sử dụng cả xung phong gọi bất kỳ để cả lớp làm việc.
5. Mâu thuẫn giữa học viên ít thời gian đọc tài liệu nội dung đọc tài liệu nhà nhiều.
Đây một thực tế, để giải quyết vấn đề này tạo điều kiện cho học viên. Nếu giảng viên chỉ nói đơn giản các đồng chí về đọc trước bài A thì không ổn (nội dung bài dài, khó, học viên không thời gian đọc hết được). Giảng viên phải đặt yêu cầu cụ thể cho việc đọc, nghĩa phải nói học viên chú ý đọc phần (có thể khái quát thành câu hỏi) nêu vấn đề sẽ thảo luận bài sau để học viên chuẩn bị tốt cho phần trọng tâm đó. như vậy học viên thể xem nhanh những phần không phải trọng tâm (vì học viên không thời gian).
VII. CHÚ Ý
- Hình ảnh bao giờ cũng dễ nhớ, nhớ lâu hơn lời nói, dùng trực quan để miêu tả các vấn đề trừu tượng dễ hiểu hơn dùng lời nói. Do đó cái thể dùng biều đồ, đồ, hình vẽ, phỏng, video để diễn tả được thì phải khai thác tối đa.
- Cần hiểu rằng, học viên nói ra (thậm chí đọc từ tài liệu ra) để trả lời câu hỏi hay vấn đề giảng viên nêu ra cũng đã thành công rồi, cũng hơn giảng viên tự nói điều đó ra rồi.

QUYẾT TÂM TÔ THẮM CỜ HỒNG BÁC TRAO

  Tác giả: Lê Nhất (Bài thơ đạt giải A Cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống Trường Sĩ quan Lục...